Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

TRẦN MAI HƯỜNG VỚI NHỮNG GIỌT THƠ RƠI

 TRẦN MAI HƯỜNG VỚI NHỮNG GIỌT THƠ RƠI
     (Đọc Những ngọn sóng tỏa hương, thơ Trần Mai Hường, NXB Hội Nhà văn- 2012)
TRẦN MAI HƯỜNG VỚI NHỮNG GIỌT THƠ RƠI

         Ai đã từng gặp Trần Mai Hường hẳn không quên nụ cười, nhất là giọng nói. Hình như chị thích nói, muốn nói, mà nói là phải đúng lúc đúng chỗ, đúng đối tượng để được sẻ chia. Bởi qua hai tập thơ Sóng Khát (NXB Văn học) và Đó là Em (NXB Hội Nhà văn) là sự trăn trở về tình đời. Phải chăng" Đã mang lấy nghiệp vào thân” thì đừng trách lẫn trời gần trời xa được… Chị làm thơ đâu chỉ giải tỏa cảm xúc, bộc bạch nỗi lòng day dứt từ những điều trông thấy trước mắt cùng những va vấp trượt ngã giữa đường đời vốn thênh thang và cần khẳng định trách nhiệm người cầm bút trong việc định hướng cách viết cũng như dành tình yêu đối với đất nước và con người Việt Nam trong hôm nay. Chính vì thế Những ngọn sóng tỏa hương (NXB Hội Nhà văn, 2012) của Trần Mai Hường kịp ra đời đúng thời gian mong đợi.

          Với chị, làm thơ rất khó, ngoài cảm hứng từ sự việc, con người cho cái tình trào dâng thì tứ thơ mới xuất hiện. Trần Mai Hường rất cẩn trọng từng con chữ nhưng phóng khoáng, không khắt khe vần điệu nên mạch thơ theo dòng chảy tự nhiên như suối đổ ra sông, sông ung dung lượn lờ cũng ra biển. Biển tích tụ cho đời làm nên những hạt muối trắng phau nuôi sống người dẫu bao đời luôn nhịp nhàng theo con sóng. Chị tự khẳng định " Người đàn bà làm thơ/ Xô lệch từng đêm/ Vắt khô mình/ Nước mắt…Người đàn bà làm thơ/ Nửa đời mặn đắng/ Nén nỗi buồn/ Những/ giọt/ thơ/ rơi…Người đàn bà trong em/ Muốn tan chảy vào ngôn từ vô tận/ Không đắn đo toan tính/ Còn/ Mất/ Thiệt/ Hơn”(Em).Thì ra, Người đàn bà làm thơ biết bao trăn trở suy tư có khác gì với người đàn ông hay không?!      
          Những ngọn sóng tỏa hương đầy ắp tình yêu ban đầu rạo rực khao khát cháy bỏng trái tim đương xuân của thời con gái. Đó là vẻ đẹp tinh khôi "Mùa thiếu nữ/ Chảy tràn trên khúc lãng du/ Đắm mình vào góc lặng/ Tự mình hân hoan”/(Mùa). Như ngập tràn nắng xuân ùa về nhớ nhung đắm mình: "Ẩn hiện thơ em những khẽ khàng bối rối/ Viết những dòng về anh - cho anh”.Nhưng thực ra sự tưởng tượng của nhà thơ vô cùng tinh nghịch: "Em hay đùa anh – hai phương trời xa thẳm/ Có một mối tình ngộ lắm- tình chay”(Viết tặng mối tình chay). Để rồi xa xót nỗi buồn đọng lại chơ vơ, chị đi tìm kỉ niệm của thuở nào:"Bỗng nhiên nhớ những tấm ảnh của anh/ Đẹp lạ kì với sắc chiều đồng nội/ Những tấm ảnh như bước ra từ cổ tích/ Sột soạt mắt người”. Đọc đến từ  "sột soạt” cho tôi nhớ ngay đến câu thơ Hàn thi sĩ miêu tả Mùa xuân chín: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lí đón xuân sang”. Sột soạt của Hàn gợi chuỗi hợp âm náo nức rộn ràng làn gió tinh nghịch cho tà áo em cuốn bay, hay là nền xanh cây lá trong vườn xuân ấm áp ngọt ngào đầy sức sống mở ra phía trước. Còn Sột soạt  trong câu " Sột soạt mắt người” của Trần nữ sĩ là sự đối lập trong đó nước mắt ứa ra là yếu tố gợi cảm nhạy bén cho cái chớp mi liên hồi. Và chỉ có nhà thơ mới nghe trọn vẹn tiếng động ấy từ miền nhớ nhung xa xôi đau đáu, chất chồng bung nở trong khổ thơ văn xuôi ùa về: "Có một ngày đá bỗng thấy nhớ nhung nỗi nhớ vu vơ nơi nào xa lắm như mây mướt hơn khoe trời ngọt nắng ngọn gió mềm lay khẽ phím non tơ…”(Thơ cho người mong gặp).
           Những lúc khát khao chín mùi cháy bỏng chị mượn tứ thơ năm chữ trải mình không một chút bâng khuâng đắn đo:
                  "Ngực rằm đang mùa chín
                   Em khuyết một trăng non
                   Có bài thơ lạc tứ
                   Đắm vần chờ nguyệt lên”/(Giá anh biết)

            Nhịp nhàng thanh bằng thanh trắc đan xen từng dòng như là sự lặp đi lặp lại xa xót tột cùng dẫu chỉ là cái cớ để bộc bạch nỗi lòng trước mắt thật trớ trêu "Kể từ khi cha mất/ Mỗi khi đi ra đường/ Con không quên mang kính/ Tròng to và màu đen” vì:
                  "Chỉ để con được khóc
                  Lúc tủi thân đau lòng
                  Mà không ai biết được
                  Con khóc dù phố đông”/ (Nhớ cha)
          Có những lúc mượn hình ảnh của phận cỏ thấp hèn để nói đến cái tình người gắn bó vô cùng lớn lao về một giá trị nhân sinh chân chính, đôi lúc giữa người sống với nhau cũng có thể thờ ơ, quên lãng, nhà thơ nhắc nhở nhẹ nhàng trong thể lục bát truyền thống điêu luyện mà hết sức giản dị:
                     "Oằn mình dưới bước người đi
                     Nén lòng thấm tiếng thầm thì nhân sinh
                     Vì sương cỏ nguyện quên mình
                     Dâng đời từng sớm bình minh nõn nà
                     Mai này dẫu đã đi xa
                     Còn nghe trong đất vỡ òa mầm xanh”./(Cỏ)
            Sự lựa chọn nào tốt hơn giữa thật và giả. Dẫu biết cái giả luôn được đánh bóng lớp men tráng kĩ bên ngoài đủ lừa mắt thường làm sao thấy được. Dễ bị lún sâu trong lòng đất khi dẫm phải bùn, lúc này chưa có điểm tựa, ngay giữa buổi chợ đời vẫn còn đồng thau lẫn lộn: "Tôi đã hằng tin mây phải bay/ Tôi đã hằng tin sen phải thơm/ Tôi đã hằng tin máu phải đỏ/ ” Nhưng điều gì làm cho chị hụt hẫng, kịp thời nhận ra những "hồ li ” vất vưởng lúc nhúc đâu đó chẳng là gì so với đóa sen ngàn đời mãi tỏa hương thơm, máu đỏ không thể thay bằng màu khác. Đó là chân lí: " Và bây giờ/ Tôi vẫn dặn lòng/ Tin” (Niệm). Lòng nhủ lòng: "Đừng hoang mang tình người thất lạc nơi đâu/ Đừng hoảng loạn trước dối lừa đó kị " Người làm xiếc đi trên dây rất khó/ Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn…”/ ( Nhấn F5). Trần Mai Hường mượn câu thơ của Phùng Quán "Người làm xiếc đi trên dây rất khó/ Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn…”. Nào phải là một sự chiêm nghiệm hay nói về nhân tình thế thái, mà là thói quen thành thạo có ý thức trách nhiệm trong nghề nghiệp. Công việc Người làm xiếc là giải trí thư giản cuối tuần đem lại tiếng cười sảng khoái. Làm nhà văn đâu chỉ kể lại câu chuyện vui buồn đầy vơi trong cuộc sống, không thể thờ ơ lừa dối trái tim mách bảo những điều mắt thấy tai nghe. Tiếng nói của nhà văn là tiếng nói của lương tri, của dân tộc.
        Đến với Những ngọn sóng tỏa hương ta gặp sự chuyển biến ở Trần Mai Hường sau chuyến ra Trường Sa, chị dồn hết tâm huyết viết về đề tài biển đảo. Trong khuôn khổ chật hẹp trên trang giấy, chị vẫn dành trọn vẹn tình cảm chân tình sâu lắng nhất trân trọng ngợi ca Những ngọn sóng tỏa hương* để kính dâng anh linh những người lính anh dũng hi sinh trong hải chiến Gạc Ma ngày 14. 3. 1988. Chị bồi hồi nhớ lại " Ngày Trường Sa bầm đỏ” đã " Quặn thắt lòng đại dương”:
                " Nơi các anh ngã xuống
                 Máu đã thắm san hô
                 Anh linh hòa sóng biếc
                 Cứ tỏa hương từng giờ”
         Quả thật đây là nỗi đau lớn nơi thềm lục địa Việt Nam. Là nỗi đau chung của toàn dân tộc Việt Nam. Mà gần nhất là nỗi đau mất mát từ trong gia đình của những người mẹ mất con, của những người vợ mất chồng, của những người em mất anh, của những người con mất cha, … Từ trong sâu thẳm trái tim, giấy báo tử hòa máu và nước mắt đọng lại đâu đây giữa lòng đại dương cho nguồn nước biển ngày càng mặn hơn bật sôi lên những đợt sóng cuồn cuộn dâng trào. Đến với Trường Sa, chúng ta tri ân thắp hương tưởng niệm "người chiến sĩ” có một tình yêu Tổ quốc thiêng liêng cao cả. Cho "Trường Sa bình yên”*. Nơi ấy là sự sống của quê hương: " Đảo nổi đảo chìm ngắt màu xanh cây cối/ Những em bé bi bô tập nói/ Mỗi hoàng hôn thiêng liêng tiếng chuông chùa”. Nơi ấy là tình yêu tiếp nối bền vững: "Anh lính trẻ thầm yêu cô giáo trẻ/ Con ốc mặt trời giấu lòng mình kĩ thế/ Chợt bừng lên mặt lính lúc cầm tay”. Cho Miên khúc đảo* được lên xanh vời vợi: "Đảo đang già thoắt hai mươi tuổi/ Trước những cuồng phong/ Lại dịu dàng cổ tích/ Phút nụ bàng vuông bung muốt cánh mềm” dâng đầy niềm vui rạo rực cho khúc ca bình minh trỗi dậy "Sống lại ngày tân hôn” ùa về nhung nhớ. Và vẻ đẹp những phụ nữ là vợ những người lính nhà giàn đã hi sinh trên thềm lục địa năm nào đã Hóa Sóng* hiện ra theo mạch cảm xúc của Trần Mai Hường rạng rỡ ấm áp: 
                " Anh đây rồi
                  Dưới ngần ngật biển xanh
                  Đôi mắt bao dung
                  Nụ cười ấm sáng
                  Bộ quân phục hải quân tỏa rạng
                  Giữa trùng trùng san hô”
           Không thể đè nén cảm xúc xuân nồng trong tình chồng vợ "  Anh ôm chị vào lòng/ Như những ngày xưa/ Ánh mắt bờ môi nói lời của lửa/ Biển cuốn khúc phiêu linh cuồng nhiệt/ Trăng đầm đìa chiêm bao”. Âm thầm tận hưởng hạnh phúc đâu muốn sẻ chia: " Chưa bao giờ chị kể ai nghe/ Về những đêm/ Hóa sóng”. Thật vậy, trong Những ngọn sóng tỏa hương, với phụ nữ bao giờ cũng kín đáo tế nhị dịu dàng, đôi lúc còn hoài nghi trước cạm bẫy mà mắt thường dễ gì thấy được. Ta hãy nghe lời thủ thỉ nhẹ nhàng: "Biết đâu là lời thật/ "Ngày thấy em – tim rơi”/ Biết đâu là lời thật/ Ngôn ngữ người rong chơi/”cứ cuốn hút một cách kì lạ "Sóng lòng dâng gọi mời/ Em nép vào hoang dại/ Thương giọt sương mê mải/ Đu mình trong nắng xanh” (Đâu là tình thật). Chị tỉnh táo chợt nhận thấy vầng trăng kia sao tránh khỏi mây trời: "Gieo mầm từ hạt ngu ngơ/ Nhận về giọt giọt dại khờ vọng âm”. Cách dùng cặp từ "giọt giọt” trong câu bát như tiếp nối sự dồn đập tăng dần đến đỉnh cao ngẫm ngợi kéo dài dè dặt: 
                     "Lòng trăng từ ấy thôi rằm
                      Mặc cho đời cứ trăm năm cuộc người…”/ (Lòng trăng)
          Với vốn nữ tính ấp ủ từ trong bào thai, Trần Mai Hường âm thầm tích tụ nỗi buồn trải dài mở ra chiếm không gian lớn hiện hữu từ trong cảm giác, thị giác, thính giác: "Có nỗi buồn ngang gió/ Mộng du vào tóc tôi/ Thấy dại khờ thêm nhánh/ Tua tủa đau đâm chồi/ Có nỗi buồn ngang nắng/ Lung liêng như mới vừa…/ Xõa vào đêm giấc ngủ/ Nhắc những điều chát chua/ Nỗi buồn rơi ngang mắt/ Ánh cười sao lấm lem/ Mở tròn đôi mi khép/  Lần vách đời mà quên”( Nỗi buồn ngang). Thi sĩ dỗ dành hãy cố "Lần vách đời mà quên” không thể cho nỗi buồn ngang choáng ngợp. Bởi chị nghĩ rằng cuộc đời người nào ai trọn vẹn ba vạn sáu ngàn ngày. Mà dẫu có được đến ba vạn sáu ngàn ngày cũng là quá ít. Ta đã đem niềm vui nụ cười đến cho mình, cho những người thân, họ hàng làng xóm…? Lòng tự dặn lòng hãy tự chiến thắng mình dù nỗi buồn ngang cố tình len lỏi:
                    " Buồn ngang chùa gõ cửa
                      Bình tâm như chưa từng
                      Tinh diệu ồ chuông chín
                      Tự lòng thiền ngân rung”/
                              (Nỗi buồn ngang).
           Và lúc này, nhà thơ thấy yên tâm hơn, có thể thong dong vững bước. Chị bỏ lại sau lưng những nhánh dại khờ giờ đã héo khô, những chồi đau cũng theo thời gian mục rã.
            Nếu như trước đây "Biển ơi sóng khát giấc mềm/ Ta ơi buồn đã đẫm mèm mắt môi”(Đốt miền chay tịnh). Nếu như trước đây "Đêm- một giờ/ Một giờ năm mươi- đêm/ Con chữ nhông nhao điên cuồng đòi thoát xác/ Tỉnh-mê lẫn lạc/ Thắp lửa dẫn nhau về…”/ (Vào lúc một giờ năm mươi phút). Vâng, chị đã bắt con chữ thoát xác đổi mới thi pháp của mình để có một Trần Mai Hường rất riêng, mạnh mẽ lựa chọn tứ thơ diễn đạt không hề khập khiễng cứng nhắc như sự đối chiếu có nét tương đồng của những nhân vật trong một tác phẩm mà GS. Hà Minh Đức đã mạnh dạn vạch ra trong lời thoại của Chí Phèo khi nhận mình mang dòng máu Việt, không hề tuyệt tự: "Đừng lầm lẫn tôi với AQ/ Tôi xem thường thằng hàng xóm ấy/ Suốt ngày dương dương tự đắc/ Viết không tròn một chữ O”( Chí Phèo).
         Một lần nữa muốn khẳng định Trần Mai Hường rất chặt tay trong cách lập tứ, chị dùng những thủ pháp nghệ thuật của thi ca để nói lên tiếng nói nữ quyền của mình, của một thế hệ, không hề đắn đo toan tính vụ lợi, không e dè, nhút nhát. Chị viết những điều cảm và nhận được từ trong đất liền, từ ngoài biển đảo. Đó là một thực tế không suy diễn. Không vì thế im lặng làm ngơ. Đó còn là một nhân chứng của lịch sử đất nước của ngày hôm nay.

 Mai Hường và Sẻ Nâu ở Hầm Hô Tây Sơn
alt
          Tôi cứ đắm mình theo con chữ trong Những ngọn sóng tỏa hương của Trần Mai Hường, nuối tiếc chỉ vì một tập thơ mong mỏng, đếm đi đếm lại cũng chỉ có bốn mươi hai bài. Mỗi bài thơ là một đóa hồng trinh kia, ngan ngát tỏa hương theo cái tình chị chắt chiu gom góp gìn giữ, buộc lòng thổ lộ gởi gắm không một chút ngại ngần, còn tổng hợp cái sắc màu chính là thân lá cánh hoa lung linh mời đón. Cẩn thận thôi, khéo cành hồng có gai mà e dè dùng đến găng tay gom lại một bó làm mất đi xúc giác ban đầu, hãy thư thả từng bài trên trang giấy tận hưởng phút giây êm dịu cho tâm hồn ngát miền xanh. Nơi ấy ngỡ như "Không hình hài”* mà sao chị khẳng định” Có niềm tin nào vô nghĩa…”(Không hình hài), bởi đó còn là "Bí ẩn vỏ sò”* cặm cụi "Hút tìm ban mai xa”(Bí ẩn vỏ sò). Còn nữa, cũng như bao nhà thơ khác chị nào bằng lòng với thực tại. Bởi thực tại là những gì đã trải qua. Cứ mỗi lần bụi trần vướng lên tóc áo, nhà thơ phải dừng lại suy ngẫm, rưng rưng rồi mới tiếp bước. Tỉnh táo nhận ra làm thơ luôn là sự thể nghiệm, bứt phá. Đó là nhu cầu văn học. Chị chắt lọc những con chữ ẩn mình trên những câu thơ, phả vào đó hồn cốt tinh tế không hề dễ dãi nhưng đôi lúc dùng dằng những từ như "dại khờ, dại khôn, nỗi buồn, buồn ngang, buồn dài, đâm chồi, trỗi dậy, nhú mầm, mùa xanh, nảy xanh,…” ở một số bài thơ đầu trang sách có phải là điểm nhấn hay dụng ý của tác giả. Nhưng điều đó không hề giảm đi giá trị nghệ thuật thi pháp thơ đương đại thiên về hình tượng ngôn từ.  Cho nên mỗi câu thơ như cánh chim bay giữa bầu trời cao rộng. Cả bài thơ ngỡ từng đàn tung cánh ở trên không. Có lúc như thể hình cầu vồng lấp lánh, hay ngược là cánh võng đong đưa. Có lúc như đường viền chân trời sinh động biết bao. Đọc thơ Trần Mai Hường ta tìm ra tính hướng thiện, lòng nhân ái gieo trong sâu thẳm tâm hồn mỗi con người. Nhớ những gì cần nhớ để bảo vệ, để tô điểm, gìn giữ nâng niu. Quên những gì phải quên để cho nụ cười luôn nở trên đôi môi khi mỗi người biết xích lại gần nhau yêu thương và chia sẻ.
            Có đọc kĩ Những ngọn sóng tỏa hương của Trần Mai Hường ta mới hiểu được lời nói của Nicôla Ghiden: "Tôi thích xuất bản một quyển sách trong ba năm, hơn là ba quyển sách trong một năm”. Đối chiếu với thời gian tập thơ trước của chị đã xuất bản là năm 2010 là như vậy.

 20.10.2012
Nguyễn Thị Phụng .
___________
*Tên những bài thơ trong tập

Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2012

ƯỚC Ước anh là Nguyễn Bính

CHÀO MỪNG NGÀY THÀNH LẬP
HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM (1930)
.
     Suốt cả ngày nhận lời chúc, kể ra trọn niềm vui. Nhưng vui hơn là viết xong bài cảm nhận tập thơ NHỮNG NGỌN SÓNG TỎA HƯƠNG của Trần Mai Hường vừa gởi tặng sáng hôm qua. Đã mail cho em rồi. Không biết cảm xúc như thế nào. Nhưng riêng mình thấy toại nguyện lắm.
     Và riêng mình có điều ước:
alt            
ƯỚC
Ước anh là Nguyễn Bính
Em cô gái bên nhà
Giậu mồng tơi có lẽ
Sẽ rẽ lối anh qua
              NTP

Thứ Bảy, 6 tháng 10, 2012

SÓNG BẠC ĐẦU VÀ BIỂN BAO LA

               SÓNG BẠC ĐẦU VÀ BIỂN BAO LA
         (Đọc tập thơ “Lãng Đãng Giữa Đời” của Trần Viết Dũng, NXB Trẻ, 1993)

alt
         Tôi biết Trần Viết Dũng qua bài thơ “ Vua và Em” và lần đầu tiên nghe anh đọc bài “ Gái Bình Định: “Mới nghe đã hoảng hồn tôi/ “Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền/ Sao em đi đứng ngoan hiền/ Sao em má lúm đồng tiền duyên ghê ! Nói một cách nôm na là anh tán gái thật khôn khéo lại tự nhiên thấy vui vui và hay hay. Chàng thi sĩ hiền hiền trong giọng nói, trong mỗi tứ thơ. Để rồi tôi lần dò tìm đọc cả tập “Lãng Đãng Giữa Đời” (NXB Trẻ, 1993) của anh, nhà thơ đất võ làm thơ tình bén hơn cả đường gươm, cứ lâng lâng ngỡ đang ngụm chút rượu Bàu Đá quê mình mới lạ chứ.
          Thường qua mỗi tác phẩm thể hiện phong cách người sáng tác.“Lãng Đãng Giữa Đời” chỉ ba mươi mấy bài đều mang đậm chất trữ tình đi sâu vào ngõ ngách tâm hồn và yêu cho hết mình mới thôi. Nếu “Lãng Đãng Giữa Đời” như vị ngọt của tình yêu đôi lứa, những trăn trở thường ngày là đề tài hấp dẫn nhà thơ, ta đọc hết ở thi sĩ sự chờ mong mòn mỏi:
                  “Người ơi, người nếu có về
                  Chớ cay đắng bạn, chớ thờ ơ tôi
                  Nụ tầm xuân nở biếc rồi
                  Hình như có bước xa xôi trở về
”/ (Ca dao)



          Khi vận dụng những cụm từ “người ơi” “nụ tầm xuân” trong ca dao xưa để nói đến cách cảm mới ca dao hôm nay, muốn nhắn gởi còn e dè kín đáo của chàng trai mới lớn đang khát khao yêu. Thi sĩ chợt nhận ra: “ Bắt đầu bàn tay nâng trái cấm/ Loài người từ đó biết khổ đau” để rồi: “Ngõ hạnh tôi, em bắt đầu bước lại/ Cây đau thương cũng từ đó bắt đầu” ( Bắt đầu). Cái quả ngọt tình yêu đã nẩy mầm được trân trọng nâng lên, khi nó không còn là bản năng sinh tồn của loài người, nên trong dòng chảy cảm xúc luôn được thăng hoa mà đầy trắc trở: “Mùa thu, mang tim em sai nhịp/ Như lần đầu người nói dễ thương/ Giọt máu chung tình phong kín lại/ Chiếu chăn nhàu dỗ giấc triều sương”( Đi giữa mùa thu). Phải chăng đó là sự trái ngược trong lập luận của anh: “ Như hơi chỉ bốc lên trời/ Như nước chỉ rớt xuống đời vu vơ”( Đối khúc) theo quy luật tự nhiên. Còn với tình yêu là khái niệm trừu tượng nhưng dễ dàng nhìn thấy qua ánh mắt, cử chỉ, thái độ, lời nói,…là bến đợi mở lòng sẻ chia:
                   “Lênh đênh con sóng thời gian vỗ
                     Sóng bạc đầu và biển bao la
                     Nửa đời, người chẳng nơi cư cố
                     Thôi, ta xin làm một quê nhà
”/ (Thuở xa người)

             Hình ảnh “một quê nhà” trong câu thơ anh vừa ấm áp chân tình, vừa gần gũi bao dung của bến đợi như dang rộng vòng tay đón chờ. Bởi tiếng lòng anh tha thiết nhận ra: “ Chúng ta lớn lên bên nhánh sông hiền / Xanh và đen như mắt người thiếu nữ / Cái nhìn khiến mềm lòng tên lãng tử/ Lúc quay về có bóng nhỏ đứng trông” rồi nỗi lòng khao khát: “ Đã khuya rồi trăng đòi ngủ sau mây/ Ta đưa nhau về lòng nhớ nhung quá đỗi / Nếu vắng bé làm sao anh sống nổi / Dưới trần gian vốn đã chẳng vui này” (Về lại vùng tuổi nhỏ). Anh khẩn cầu không hoài công uổng phí những khao khát ấp iu cho môi thơm ngọt ngào vụng về cháy bỏng:
                          Cho anh một nụ lôi thôi
                          Lần đầu run, lệch tâm môi đôi miền
                          Cho anh một nụ ngoan hiền
                          Rơi trong giấc ngủ hồn nhiên trăng tà
/ (Những nụ hôn).

          Theo Trần Viết Dũng, tình yêu ai nói bằng lời, ngoài nắm tay, “nụ hôn” mới chỉ là bước tiếp theo để biểu hiện cảm xúc nhẹ nhàng sao vụng về đến thế! Tiếng nói trái tim thật dịu kì mạnh mẽ, trái tim nhạy cảm đa mang nâng hương hoa tinh khiết làm cội nguồn chắp cánh hồn thơ anh bay bổng: “ Em áo trắng xưa kia hoa khôi lớp/ Ta học trò bỗng chốc hóa nhà thơ/ Bài thơ đầu em mang đi đâu mất/ Lỡ vần tôi từ dạo ấy đến giờ…/ Lỡ vần tôi thân thế chẳng ra gì” (Hoài niệm hoa). Phải chăng đó là lòng biết ơn, có tà áo trắng bay bay trong nắng vàng với dáng “Kiều” em mới cho anh làm thi sĩ. Phải chăng đó là sự nuối tiếc và phải chăng tự trách mình là người đến sau! Hay là sự mặc cảm thân phận trong cách sĩ diện thân thế chẳng ra gì, hay tính ích kỉ còn tồn tại ở một số “bậc mày râu” !
          Đến “Lãng Đãng Giữa Đời” là đến chàng trai Bình Định, vùng đất địa linh nhân kiệt, nổi tiếng văn hay võ giỏi. Và cái tiếng võ giỏi có sức lan tỏa mạnh, biết rằng thi sĩ người Bình Định nhưng thật khéo léo trong cách kể chuyện “Vua và em”. Đó là tình yêu của chàng trai Nguyễn Huệ và công chúa Ngọc Hân thuở nào. Có lẽ, trai Bình Định đến con gái Thăng Long, xứ sở của vương triều, lúc này thi sĩ rất tự hào: “Ta- trai Bình Định hơi khô cứng / Rất thật tình riêng phong cách miền Trung / Ô hay! Sông núi sinh người vậy / Mà lúc nào cũng độ lượng bao dung” (Vua và em). Vừa khẳng khái vừa độ lượng nhân từ, chỉ bao nhiêu đó đủ vốn để có thể chinh phục hàng vạn trái tim con người, đâu riêng gì một mình“Em” ?!...  Điều gì đã không cho phép anh, nên “con gái Thăng Long” ấy dù “ ốm o mình hạc” thông cảm và hiểu anh hơn. Dù cho xã hội phong kiến bấy giờ ưu ái phái nam có quyền đa thê mà hạnh phúc lứa đôi không thể có sự chắp nối. Đó phải chăng là giới hạn của tự nhiên, của hoàn cảnh gia đình, của xã hội quy định. Và dù có tham lam đến mấy thì anh phải có sự lựa chọn, cái tâm cái đức của bậc trượng phu nào cho phép anh làm ngơ trước lá ngọc cành vàng kia. Anh thắt lòng: “Và có lẽ, mai chia tay buồn lắm / Em ốm o mình hạc Thăng Long / Thương áo trắng đi giữa trời sương khói/ Ta đã yêu, thôi em cứ an lòng”. Vâng, “Ta đã yêu, thôi em cứ an lòng”. Không anh và em, mà ta và em. Cách lựa chọn vai vế trong xưng hô phù hợp với thời đại cũng mang tính cả quyết, đầy quyền uy, nhưng không thể bảo bọc sẻ chia cho riêng em được. Dù trong hoàn cảnh nào khi ta đã yêu thì không ai có quyền cản trở, em cứ yên lòng với tình yêu ta dành cho em trọn vẹn cũng như bao người con gái khác vậy. Ta yêu em chính là yêu cái đẹp. Đã là người không ai không yêu cái đẹp. Thưởng thức và trân trọng cái đẹp là thưởng thức cái chân thiện mĩ. Thi sĩ ngộ ra trong một tứ thơ ba câu rất mới giữa đời thực và mộng:
                     “ Nhiều khi thơ là phiến phù vân
                        Lững lờ trôi giữa chiều hoa định mệnh
                        Trong vô thường lặng lẽ bay đi

             Và sự lặp lại:
                        “ Nhiều khi trời bong bóng vỡ, nhiều khi…
                          Em phù phép kéo ta về đời thực
                          Rồi tan theo bụi ô nhiễm nơi này
”/ (Tùy bút thơ)

            Cách lí giải chưa đủ sức thuyết phục, độ tin cậy chưa cao, bởi đời thực tuy khó khăn thiếu thốn, ta vẫn biết chắc chiu gìn giữ lấy lề dù áo mặc rách bươm. Mọi chông gai chỉ là bước đầu: “ Sau mỗi chuyến làm ăn thất bại / Tôi với đời cay cú chuyện áo cơm / Thơ bỗng về hòa giải- thiệt, hơn / Và vỗ về, tôi cảm ơn biết mấy” (Gạch nối thơ) Cái gạch nối thơ và đời là hai mặt đối lập bổ sung. Nếu thơ là suối mát giữa trưa hè gay gắt thì đời chính là ngọn lửa giữa đêm đông. Nên đời yêu thơ bao nhiêu thì thơ yêu đời bấy nhiêu. Có thế thơ mới giải tỏa sầu bi bế tắt khốn cùng những lúc phải ngụp lặn giữa bể dâu ngỡ không còn lối thoát, thơ là khúc ca nâng cánh cho ta vẫy vùng giữa xanh thẳm trời xanh.
          Đọc “Lãng Đãng Giữa Đời”, ta luôn bắt gặp những tứ thơ mang đầy tâm trạng, nỗi niềm của một tâm hồn đa cảm, đa đoan. Trần Viết Dũng đâu chỉ dừng lại những khung cảnh tuổi học trò hào hứng nơi bước chân đi qua ắp đầy kỉ niệm khi “Đêm trở lại Quy Nhơn”* từ ngã tư, ghế đá, góc quán, Cầu Đôi,…thuở nào cho thi sĩ nuối tiếc: “Đâu còn thuở mười lăm mười bảy / Ngược vòng xe liều lĩnh đi tìm” nữa. Giờ với anh “Trắng”* tất cả trong một bài thơ tám câu với tám từ “trắng” thật chạnh lòng: “…Ngược xuôi rồi cũng trắng tay/ Trở về sương gió trắng vai áo mình…” Và nếu thế thì… “ốm o mình hạc” không còn là của con gái Thăng Long kia nữa, mà chính là anh. Cái điệp khúc ngỡ yêu chưa đủ dày vò mãi cuộc đời đến lúc nào đó phải chết mòn trái tim thi sĩ. Hầu như anh cứ lận đận nhọc nhằn tình yêu đôi lứa, ức chế quẩn quanh: “ Để đêm đêm riêng dưới mái hiên nhà / Em lặng rót trái tim làm hai nửa / Anh lặng xót mắt môi mình không nỡ / Thà như sương cứ lãng đãng giữa đời” (Lãng đãng giữa đời).
          Với mười hai khổ thơ, mỗi khổ bốn câu trong “ Trường sơn khúc”* Trần Viết Dũng viết cho bạn bè bị động viên năm 1972, ở miền Nam không thoát ra được nỗi cô quạnh, mặc dù: “ Đứng thẳng vói tay cao hơn núi/ Mới hay trời quá đổi cao xa/ Hỏi rừng, nay đã bao nhiêu tuổi/ Trải mấy thu đông rừng sẽ già”, nhoi nhói quặn đau: “Trường Sơn, Trường Sơn sâu gió hú/ Thú rừng gầm giọng động một phương/ Nghe thú: lạc đàn buồn bã lắm/ Nghe ta: mù mịt một quê hương”.
           Dẫu biết rằng thơ với anh như dưỡng khí thường ngày để hít vào thở ra, môi trường trong lành là đồng lúa uốn câu nặng hạt reo vui rộn ràng mùa gặt, là mặt biển xanh dập dờn con sóng,…là cơ hội cho tâm hồn thi sĩ thăng hoa. Cũng như theo quan niệm của Viteslav Nezval: “ Với tư cách nhà thơ, chúng ta không cần hạ thấp yêu cầu của chúng ta với thơ. Thơ cần là chính nó ngay khi chúng ta đặt ra cho nó những nhiệm vụ mới. Ngược lại nữa – chính do có những nhiệm vụ mới, thơ lại càng là chính nó ở mức cao hơn”. Cái cốt ở thơ không là loại thể, vần điệu, cái cốt ở thơ là chính nó gắn liền với cuộc sống của con người với đất nước và dân tộc. Chúng ta tìm được ở Trần Viết Dũng “ Khuyên mình”* với bốn câu kết: “ Dù đời sống hành thơ kiệt sức / Cũng nhoài người ôm giữ trái tim / Còn nhịp đập lẽ nào bất lực / còn yêu thương thì phải cố công tìm”. Nào đâu là lời tuyên ngôn vẫn chắc như đinh đóng cột vậy. Chúng ta sẽ đón chờ ý tưởng cố công tìm của anh trong những tập thơ tiếp theo.
                                           29.8. 2012 / Nguyễn Thị Phụng.
____________
*Tên những bài thơ trong tập.