Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2019

CÂU CHUYỆN TRƯỚC RẰM THÁNG BẢY. Nguyễn Thị Phụng


Truyện mi ni:
CÂU CHUYỆN TRƯỚC RẰM THÁNG BẢY.  





            Còn mấy ngày nữa là hạ chí, cái nắng ở thành phố Quy Nhơn ngỡ ngột ngạt theo dự báo thời tiết ở 39 độ C. Nhưng được cái ngọn nồm ở biển lấn át cơn nam cồ khô khốc rát rạt kia. Trong phòng lại càng mát hơn cảnh đứa con gái đứng chải tóc cho mẹ. Người mẹ mặc áo đầm hoa màu huyết dụ, ngồi trên cái ghế dựa, chốc chốc nhìn đồng hồ, còn nói với con gái để mẹ đi với các cô cũng được.
        Cảnh cửa mở.
        - Ủa, cũng đi với tụi mình nữa à. Một người bạn từ Tuy Phước nói tranh thủ đến sớm để thăm bạn bệnh phải nằm nhà hơn năm nay.
        - Chẳng lẽ là mình ở nhà. Con mình không cho mình ở nhà, mới khổ.(Chị vừa nói vừa cười), Có cơ hội là đi. Yên tâm, cứ ở đây chơi với mình, đúng giờ con gái alo taxi đến đón, đưa đến tận phòng nhà hàng Trầu Cau dự tiệc cưới với các bạn luôn.
         Tất cả cùng ồ…lên, theo sau là tràng nói cười thân thiện giữa những người bạn cùng khóa Tá viên Điều dưỡng Quy Nhơn ngày ấy.
         Trước bữa tiệc, đứa con gái vẫn không quên bỏ phong bì vào thùng chúc mừng hạnh phúc. Sau bữa tiệc, đứa con gái có mặt cẩn thận dìu mẹ xuống từng bậc tam cấp, đưa mẹ lên xe, người mẹ vẫy tay chào các bạn, hẹn gặp lại nữa nghen.
    Vĩ thanh: Từ câu chuyện đầy xúc động của chị tôi kể lại. Người mẹ trong truyện là chị Đấu- quê Hoài Nhơn, cựu học sinh trường Trung học Tăng Bạt Hổ, Bồng Sơn, chị còn là lớp trưởng lớp Tá viên Điều dưỡng Quy Nhơn. Chị tôi nghỉ lại nhà chị ấy, hôm sau mới về.
24.05.2019 
Nguyễn Thị Phụng.

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2019

CHUNG MỘT ĐƯỜNG VĂN,Nguyễn Thị Phụng


CHUNG MỘT ĐƯỜNG VĂN
           (Đọc Văn trẻ Bình Định, Hội VHNT. Bình Định, NXB Vh-Vn. 2018)


           Không là sự phân biệt, khi tập sách Văn trẻ Bình Định (2012- 2018) của Hội VHNT Bình Định ra mắt bạn đọc, phải chăng thành tựu văn học Bình Định hòa cùng dòng chảy văn học dân tộc của 20 năm đầu thế kỉ XXI. Đành rằng miền đất văn chương bao đời đâu thể khiêm tốn 400 trang sách cả thơ, văn xuôi dành cho 22 tác giả trẻ sinh sống nơi đây, quả là sự nhọc nhằn của người biên tập và tuyển chọn.
         Dấu mốc độ tuổi dành cho văn trẻ không quá bốn mươi. Từ những học sinh ở bậc THCS, bậc THPT, bậc ĐH, và đang đi làm ở mọi ngành nghề khác nhau. Chính vì thế nên có sự đa dạng thể loại và đề tài, sự tinh anh phát tiết ra ngoài trên từng trang sách. Có thể nói trong tập:
         - Chuyên truyện ngắn tập trung 7 tác giả: Trần Thị Hân, Nguyễn Nữ Thùy Linh, Trần Thị Tuyết Mai, Nguyễn Anh Nhật, Lê Hứa Huyền Trân, Nguyễn Đặng Thùy Trang, Lê Thị Cẩm Tú.
        - Chuyên thơ: có 12 tác giả: Phạm Ngọc Yến Anh, Nguyễn Văn Bút, Phạm Quyên Chi, Lê Văn Đồng, Nguyễn Vũ Hồng Khương, Lê Văn Linh, Nguyễn Văn Phi, Nguyễn Thị Bích Phượng, Trần Văn Thiên, Trương Công Tưởng, Khổng Vĩnh An Vi, Trần Thị Hồng Xuân.
      - Cả hai mảng truyện ngắn và thơ: có 3 tác giả: Nguyễn Lê Thu An, Thiên Nga Sô Zuôn, Nguyễn Thị Mỹ Tiên.
          Điều đáng quý ở tác giả Trẻ - trẻ trong cảm xúc để làm nên những tác phẩm đến với bạn đọc- người tiếp nhận yêu hơn những góc nhìn cuộc sống đôi lúc đau đớn, chật vật, chông chênh, vẫn giữ được tấm lòng san sẻ qua từng cốt truyện và những tứ thơ.

         I. Thơ trong Văn trẻ Bình Định giàu chất liệu thi ca trữ tình, mạch tự sự nhiều cung bậc khác nhau. Từng khoảng trời riêng nơi quê nhà với tuổi thơ hay góc phố với tuổi tình lớn lên. Ắt hẳn mỗi bạn trẻ cứ mênh mang nhịp đập trái tim theo mùa thời gian, náo nức cho mỗi tứ thơ vẫy gọi.
         a. Một chút tình được tự do đóng khung những tựa đề: Bài 3, Bài 7, Bài 10*. Khi là 9 đoản khúc*, đúng nghĩa “rời” quẫy cựa chẳng còn vẹn nguyên, sự mất mát đổ vỡ  ngỡ lăn theo dòng xoáy bụi trần, nhưng khi: “Tôi hôn vào nắng sớm/ Không dấu vết/ Lại đi tìm/ Đôi chân nhỏ khi xưa/ Ngoài kia tháng bảy thôi rơi tôi ngồi lưng chừng/ Hạ bừng tỉnh từ trên cao hoang tưởng/ Mình cắp được trái tim/ Chính mình”(9 đoản khúc- Nguyễn Văn Bút). Sự vị tha là phần thưởng duy nhất tặng những tâm hồn lương thiện. Bên cạnh Nguyễn Văn Bút, mùa tháng bảy thôi rơi, sao lại hòa vào Khúc dương cầm tháng Bảy *(Nguyễn Lê Thu An- Đông Dương, Tiểu Phong): “Những tiếng đàn nức nở khô ran” để rồi: “Tháng Bảy đọng lại trong mắt em sũng ướt/ Tiếng gọi từ giấc chiêm bao cất lên đau buốt/ Chỉ có đêm/ Và đêm/ vô chừng mực// Em lẳng lặng nhìn/ những khúc hát bay lên”. Không chỉ thơ, Thu An với hai truyện ngắn Chấp chơi Bắt lấy những ngôi sao* khá ấn tượng. Riêng ở Phạm Quyên Chi với Ba và tháng Bảy* ngỡ đơn côi trong nỗi buồn trào dâng khổ thơ đầu đầy hình tượng: “Thấy trời đục ngầu ngọn lau khô/ Thấy con sông ẵm đứa em gái ra trông mùa nước lũ”, nhưng sang khổ cuối bạn đọc nhận ra sự khát khao, nuối tiếc lại đong đầy yêu thương: “Ngày ngày/ Người đàn ông gánh đứa con mình đi qua những sắc màu”. Một Nguyễn Vũ Hồng Khương (Kha Nguyễn)chùm thơ: Viết cho mùa tựu trường, Tháng Năm, Tháng Bảy, Tháng Tám* cho chút  nhớ nhung luyến tiếc: “Tháng Bảy rừng hoang mùa cỏ dại/ Tay ôm không xuể món quà thơ/ Mũ nón đầy sim, ngọt chà là , dú dẻ…/ Giật mình,/gói lại,/ một giấc mơ…”(Tháng Bảy) không xa những ngày hồn nhiên thơ bé. Lê Văn Linh (Lê Ma)lại chững chạc hơn: “Sài Gòn, ta bắt gặp ta/ Giữa đời em buồn quyện khói/ Nhuốm màu tương giao đứng tuổi/ Ta qua miền khát chân người”(Chào tháng Bảy). Riêng Lê Văn Đồng (Tiểu Mục Đồng)nhọc nhằn mồ hôi trong căn phòng chật hẹp, chen chúc nơi phố thị mưu sinh khi tiết trời nóng cháy, ngột ngạt phải đối diện “người đàn ông với nước da có màu mắm nhỉ”, đớn đau mà tử tế: “ông thả điếu thuốc rơi vào li nước: “sao không đi xa hơn” trong một hiện thực mơ hồ xao động nuối tiếc “chào bố”(Câu chuyện đầu tháng Bảy).

        b. Thơ – trong Văn Trẻ Bình Định được lí giải từ một không gian quen thuộc nào đó, dẫu mong manh lan tỏa, khó nắm bắt tầm tay. Chẳng hạn sự khởi đầu một “Làn khói chui ra từ góc bếp” mở rộng biên độ nghi ngút, lan tỏa theo gió hòa vào đất trời bằng liên tưởng phong phú rất hữu hình, tồn tại khẳng định: “Làn khói không có chân/ Mà lửng lơ lửng lơ theo gió/ Không/ Tôi sẽ không như làn khói/ Sẽ tự bước đi bằng chính đôi chân mình/ Chạm đến ước mơ”(Làn khói- Phạm Ngọc Yến Anh- Hoa Tuyết). Chùm thơ năm bài Nguyễn Thị Bích Phượng (Mộc Thủy) gọi mời đầy thi vị những khát khao(Tam Quan quê em, Có những ngày, Tiếng sáo tuổi thơ)*, ngỡ huyễn hoặc lối vào Đêm*: “Hồi sinh một linh hồn” đầy bất ngờ, không còn là thảng hoặc Đêm về thành phố* đã thật sự độ lượng chở che “vết thương số phận” và mở ra thanh âm thường xuyên bền bĩ lắng đọng: “Chỉ còn tiếng chổi của người lao công/ Đối thoại cùng thinh lặng”. Đồng tuổi với Yến Anh trẻ lắm, ta bắt gặp người con xứ vạn Gò Bồi- quê hương Xuân Diệu, viết về đời Chị* đắng đót niềm đau, lưa thưa sông vắng chợ chiều xác xơ, cô độc: “Chị hát ru em bằng ngọn đèn dầu yếu ớt/ Bằng những cọng tóc dài như đọt rau sót lại lúc chợ chiều đã vãn/ Bằng tuổi trăng khuyết tròn một lời ru gầy rạc/ Nhánh sông lịm dần trong ngồn ngộn sóng nước/ Chiều hôm ấy mẹ nhổ chiếc sào tre ngược dòng hái vầng trăng cuối bãi/ Mấy mùa trăng rồi mẹ vẫn còn ở đó…”(Chị*- Trần Văn Thiên). Còn ở Nguyễn Văn Phi (Vân Phi) sẻ chia cực nhọc ở “chị, một người con gái Bắc/ lỡ thương anh, làm dâu xứ nhà Rầm/ …/ bữa cơm nghẹn đắng những ngày nắng oi biển phả mùi nồng nặc/ mùi ẩm mốc của rác phơi làm người phụ nữ trong bữa ăn trào nước mắt/ chồng chị, vẫn biệt khơi xa”(những ngày tay đói bàn tay*). Chờ đợi và đợi chờ thường trực phập phồng theo con sóng những người vợ có chồng ra khơi. Với người, biển là nguồn thu khôn tả, nhưng cũng trả lại cho người những ngày tay đói bàn tay!...

         c. Tiếng thơ chính là tiếng lòng của Trần Thị Hồng Xuân(Phương Phương): “Ta chia xa từ độ/ Tình yêu còn đương xanh/ Chưa tròn nguyên đã vỡ/ Bởi ta quên chân thành”(Ru ta ngày nắng nhạt)* chỉ tự trách mình Lỡ hẹn* có thể đã nhận ra, rồi tự bồi đắp chính mình bằng những bài lục bát chỉn chu: Vá nửa vầng trăng, Nhớ mùa tuổi thơ, Ngày xưa ơi…*. Nói tới thể thơ lục bát trong Văn trẻ Bình Định, thì không thể thiếu Khổng Vĩnh An Vi (Viễn Trình) ngọt ngào lắng đọng:“Giếng quê mạch sạch gạo làng/ Em ngồi vo những vô vàn tình anh/ Dựng lều hai đứa ngồi canh/ Cơm trào sóng bể rát gành mây bay”(Gạo vo thành tiếng cơ cầu)*, nhịp trái tim còn mở ra Trước Tacloban*(Thành phố của Philippines bị bão Hải Yến tàn phá năm 2013): “Nhân dân em lầm than, nhân dân tôi đồng cảm/ Nghĩa tình chung hạt muối biển Đông/ Tình nhân dân tôi gửi em, tình nhân loại gửi em/ Chắc sẽ ấm trung khơi sau đêm bình địa”. Một tứ thơ tự do rất phong cách ở Trương Công Tưởng đầy ắp sẻ chia:“cha cõng tôi qua ngày nắng dịu dàng/ thơ ấu tiếng chim buổi sớm/…/ cha cõng tôi qua cánh rừng già/ đại ngàn vạm vỡ như vòm ngực cha/…/ cha cõng tôi lên nương/ ngày sắn khoai mắt người mong mỏi/…/ cha cõng tôi qua những bể dâu/ bàn tay chai sần theo năm tháng/…/ tôi sợ đến ngày tôi phải cõng cha đi/ đại ngàn vẫn xanh bên những nhánh cây rừng héo hắt/ trái bồ quân chín rụng vào ngực đất/ thung lũng cô đơn như mắt một người”(Giấc mơ của cha tôi)*.

       II. Truyện ngắn trong Văn trẻ Bình Định được xây dựng từ mảng hiện thực đời sống với nhiều tình tiết khác nhau tạo nên sự đa dạng cốt truyện, cách kể và vấn đề đặt ra cần trao đổi, bàn bạc.
       a. Ở Trần Thị Hân với hai truyện ngắn luôn làm xáo động lòng người. Với Biển ơi*(tr.79)- biển không có lỗi mà tự con người. Hãy biết buông bỏ vụn vặt mà xích lại yêu thương. Với Quyên*(tr.90)- Số phận người luôn nghiệt ngã như cô bé bị ung thư tủy, nhưng được đồng cảm sẻ chia: “Tôi cắm bó hoa vào một chiếc lọ sứ mà người mẹ đã mất của tôi tặng. Bà cũng mất vì bệnh ung thư tủy, cũng thích ngắm mưa và thích những loài hoa dại. Vẫn màu trắng. Tôi nhìn những cánh hoa khẽ rơi trên chiếc bàn gỗ cũ. Những cánh hoa ướt long lanh, những cánh hoa úa tàn nhạt nhòa… Tôi khẽ lau giọt nước mắt nóng hổi lăn trên gò má lạnh. Tôi khóc cho em hay cho người đã khuất? Tôi sắp xa em. Mãi mãi”.
       b. Với hai truyện ngắn Nguyễn Nữ Thùy Linh (Phong Linh, Chuông): Có chung một chủ đề tình yêu trong sự lí giải được mở ra với những ai biết nhìn đúng vào sự thật, hòa nhịp trái tim mình, yêu cả nét riêng của người mình yêu như: Vì đó chính là em, Một ai đó đang đợi em.   
        c. Truyện ngắn Trần Thị Tuyết Mai đầy ngột ngạt ám ảnh. Như Mộ gió*- cho sự áp đặt chỉ là một quan niệm về cách sống giàu nghèo, vô tình đẩy đưa con cái không lối thoát. An phận cũng không thể. Hay Trong một thế giới*(tr.139) Ngợi ca bản chất số phận con người ở trại tâm thần từ đâu mà có. Bởi họ chính là nạn nhân gia đình, xã hội. Nhờ vào sự hồn nhiên vô tư và phép màu mà đứa bẻ cảm hóa được “người mẹ” thứ hai kia như truyện Trong một toa tàu.
         d. Riêng Thiên Nga Sô Zuôn không chỉ phong phú với chùm(6)truyện ngắn gom lại sinh hoạt từ bản làng miền cao đã bị cái xấu rập rình xâm thực như Nợ *(tr. 192). Nhưng sự đối lập hai tuyến nhân vật song hành đỉnh điểm. Cái thiện- tốt đã được mở ra. Những tập tục cổ hủ chưa được tháo gỡ, phụ nữ không được bảo vệ, lời nguyền tiếp nối như Chiếc lá lời nguyền*. v. v… Nhà văn còn sáng tác thơ sẻ chia vẻ đẹp của phụ nữ Ba Na từ Cô gái hái bông* lao động cần cù, đến nhân vật lịch sử bi hùng Khóc vợ Nguyễn Nhạc*, biết ơn thế hệ cha ông đã ngã mình cho đất nước như Người chú chưa biết mặt*.

       đ. Nguyễn Anh Nhật (Liêu Hoài An) với truyện ngắn Nhà xác*- chỉ là nơi giam hãm “thằng người” từng bị hoảng loạn tinh thần từ thế giới thực tại làm biến dạng tâm hồn. Đau thương thân phận người bên quán đời lui tới qua Chạy duyên* để đón nhận hạnh phúc đến với những điều có được?!... Liêu Hoài An dẫn truyện từ một cậu học sinh lớp sau, mở ra một Mùa lạ* trong gia đình, phận người đang bị cô lập như T. Bữa tiệc 5 đô* trên đất bạn, cũng là cách sẻ chia nhọc nhằn người Việt mưu kế sinh nhai, bất ngờ, nếu không có cái kết ấm áp yêu thương.
       e. Nguyễn Thị Mỹ Tiên già dặn trong việc dẫn truyện, chú tâm khai thác nội tâm nhân vật từ một Chiếc bóng*- đêm ngày với đa dạng chập chờn ẩn hiện lan tỏa trong ngôi kể thứ ba. Ngỡ chú trọng ngôi thứ nhất “tôi” trong Tĩnh vật* tự tư duy, độc thoại, nhưng là nhịp nối âm thanh “Những tiếng trẻ thơ trong trẻo chui ra từ khắp các ngóc ngách trong phòng. Tôi rượt đuổi chộp bắt lấy từng tiếng cười ấy như đang bắt từng con muỗi trong không trung…” day dứt. Đọng lại “Mỗi sớm mai thức dậy tôi đều quên tất cả, và những tiếng khóc vẫn thổn thức  đâu đây, bên đây hay bên kia bức tường” (Bên kia bức tường)*. Truyện ngắn giàu suy tư, nên khi cảm xúc thơ đầy triết luận “Nếu anh yêu em/ hãy bảo biển nên im lặng/ anh là kẻ giữ điều bất tử/ buổi chiều nằm ngoài số phận của thời gian/ con sóng không sống để tàn/ không uống bầu trời để nối lời tạm biệt”(Nếu anh yêu em),…
      g. Lê Hứa Huyền Trân (Hương Tố Trân), chú tâm cốt truyện bằng các mối quan hệ tình yêu trong số truyện Ngoại tình, Gã và nàng, Mối tình đầu*. Mâu thuẫn là đỉnh điểm mở ra cái kết yêu thương hàn gắn, trở về của “nàng”như trong truyện Chuyện tình của gã*.
       h. Nguyễn Đặng Thùy Trang (Mẫu Đơn) đều tay đến 7 truyện ngắn được chọn, cô đọng trên mỗi tựa đề. Văn Mẫu Đơn thiên về tả, kể, tâm trạng nhân vật, linh hoạt dẫn truyện thu hút người đọc giữa đời thường và sân khấu không là khoảng cách không gian, thời gian, còn là nhu cầu cuộc sống. Như ở Nguyệt* “Cắt tóc chẳng có đi đâu, cái quán thì nhất thiết không xê dịch, nhưng mà khéo tay cắt, khéo miệng cười đùa, khéo đẩy đưa mà lại chân tình thiệt sự nên mới hay là cái quán không đông nhưng khách cũng kéo nhau tới lần lượt…”. Như ở Kịch*: “Ở nơi đây, qua cái giờ sột soạt của những người quét đường và cũng thỉnh thoảng chớp nháy những đèn xe đi bão, tôi thấy một sân khấu quay mình, cứ như mặt trái của tấm màn nhung rủ xuống để đón những ánh mắt đợi chờ người ra diễn…”
       i. Lê Thị Cẩm Tú (Tú Lê, Châu Trúc) với cách viết mang dấu ấn trữ tình, hơi văn liền mạch  “Tuổi thơ chúng tôi như một màu nắng thủy tinh, pha lẫn những giọt sương còn đẫm mình trên kẻ lá. Nhìn thời gian trôi nhanh giốn như một cơn gió vờn nhẹ, lướt bay làn tóc mây mỏng manh”(Một cánh mai vàng*). Nuối tiếc Một thời đã qua* cùng những gì được mất trong nhìn nhận chính mình. Hay Mưa hoa ven đường* đậm những kỉ niệm đã xa, sẻ chia một chút Vị ngọt hồ tiêu*.

         Dù là truyện ngắn hay thơ, Văn trẻ Bình Đinh (2012- 2018) kịp thời ra mắt bạn đọc là một tín hiệu vui cho người tiếp nhận. Như là sự tiếp nối, duy trì văn hóa đọc- thông qua trang truyện, bài thơ. Phải chăng Bình Đinh là cái nôi văn chương, nhưng điểm đến bộc lộ cảm xúc và tài năng được rèn luyện từ trong nhà trường thông qua những tiết học làm thơ, viết văn, trừ những năng khiếu thiên tài cũng cần phải rèn, đọc. Văn trẻ Bình Định đâu chỉ góp vào chương trình Văn học địa phương ở mỗi cấp học trong tỉnh nhà thêm phần phong phú, mà bước đầu tỏa sáng cùng chung mạch đường văn đất nước./.
                                                                          Nguyễn Thị Phụng.
__________
*Tên các bài thơ trong tập

       

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2019

MỘT ĐỜI NẶNG GÁNH ƯU TƯ, Nguyễn Thị Phụng


                                MỘT ĐỜI NẶNG GÁNH ƯU TƯ
        (Đọc Lời của sóng, tập thơ Phan Văn Thuần, NXB. HNV- 2015)

        Xưa nay, văn thơ là hướng đến cái đẹp tâm hồn người trong cuộc sống. Độc giả tiếp nhận mọi thể loại văn bản sẽ có cái nhìn sẻ chia cùng tác giả. Với tôi cũng vậy, chọn tựa đề Một đời nặng gánh ưu tư là một câu thơ giàu sức biểu đạt sau khi đọc Lời của sóng, tập thơ Phan Văn Thuần, NXB. HNV- 2015 hay đó là lời trái tim thi nhân, một nhà giáo nặng lòng tình yêu quê hương đất nước, với “em”, với “anh”, với “tất cả” chúng ta.
           Trái tim thi nhân- nỗi trăn trở thời gian vừa là bạn đồng hành tiếp sức, nâng bước chân người vượt qua thử thách từng ngày, vừa là sự trêu ngươi cho những ai tự khép mình trong phòng tối. Ngày khép lại đã thành quá khứ. Dễ gì cái của ngày hôm qua còn đọng lại, nếu không biết lắng nghe: “Ta lắng nghe thời gian/ qua từng chiếc lá/…/ Ta lắng nghe thời gian…/ trôi trên mái tóc theo dòng sông lặng lẽ/… / Ta lắng nghe thời gian ngang qua giấc mơ/… Ta lắng nghe thời gian đi qua trên phiến đá buồn/ như một đời nặng gánh ưu tư/…”(Lắng nghe thời gian)* mà vô cùng nhọc nhằn đến thế: “Qua thời gian đá núi phai màu/ Bao dấu hỏi vẫn luôn là dấu hỏi” (Dấu hỏi)*. Thời gian đâu chỉ có Tháng sáu rồi đó em*  mà ùa về bao xôn xao trở lại Tháng 3* khơi nguồn cảm xúc:
      “Tháng 3, mimosa lại nở
       có phải vì em, Đà Lạt đến ngỡ ngàng…
      …Tháng 3, tháng 3
      mùa chim én bay về xây tổ
      điệp khúc hoan ca cứ mãi ngân nga…”
      Khúc hoan ca cứ mãi ngân nga- mở ra Khoảng trời yêu thương* với nàng thơ, khát khao và nỗi nhớ:
          Anh đi ngang một chiều mùa đông
           Những giọt mưa thấm sâu vào nỗi nhớ
           Nghe bâng khuâng hạt mưa nào rơi vỡ
           Trong hao gầy ký ức mờ xa…”
       Mà luyến tiếc có còn đọng lại. Gợi nhớ góc phố dịu dàng, nơi trái tim một lần gõ cửa, âm thanh nào từ những viên sỏi nhỏ, nghe nôn nao bao kỉ niệm ùa về! Kỉ niệm lần yêu dấu ấn khó phai mờ (Có thể và không thể, Đêm gió về khe khẽ, Em khôn cùng mãi mãi trong anh,…)*. Và em cũng là mùa xuân bất tận một tình yêu thi nhân:
        Tết này
         Em có về Quy Nhơn không em
         Để nghe tuổi thơ với cánh cò cánh vạc
         Nghe dòng sông xưa hòa cùng câu hát
         Thương nhau đĩa muối chấm gừng
…”
                                      (Em có về)

         Lời của sóng hay là lời tình yêu đất nước. Đây còn là chủ đề chính tập thơ Phan Văn Thuần, cũng không rất hiếm. Bởi con người ngự trị giữa đất trời bao la, nếu tình yêu đôi lứa nghiêng về sự phồn thực và xây dựng phát triển chính là dấu hiệu đáng mừng của sự sinh tồn, tiến bộ văn minh. Nhưng những thiên tai, dịch họa,… lại là mối nguy cơ sự tồn vong dân tộc. Việc duy trì bảo vệ văn hóa là trách nhiệm công dân đối với đất nước, tiếng nói nhà thơ lại không thể thiếu. Lời của sóng là một ẩn dụ, thỉnh cầu cho sự cảnh báo khi cơn bão khơi rập rình ngoài xa kia. Phan Văn Thuần trong Lời của sóng chân tình từ Một mùa xuân đất* nước kiêu hùng:
       Tổ quốc ta suốt mấy nghìn năm
       Bao thế hệ ông cha gìn giữ
       Từ Cà Mau đến địa đầu Lũng Cú
       Cùng biển đảo quê hương- một dãi vẹn toàn
      Và một khi Biển xanh dậy sóng* thì không thể chần chừ, nhà thơ nhắc nhở: “Hãy nhớ lấy:/ Ải Chi Lăng, gò Đống Đa và cơn thét gầm của sóng Bạch Đằng/ Điện Biên Phủ âm vang còn đấy”. Bởi cái đẹp trong cái tình không thể nén cảm xúc như: Quy Nhơn- Thành phố trong em*, Một bó hoa*, đến Đất nước- tình yêu*,…
            Lời của sóng dạt dào theo mùa tháng năm mưa nắng. Chính sự dạt dào con sóng tự nhiên làm cho cái mạn bờ kia phải ngập mặn xôn xao say tỉnh con chữ nhà giáo, nhà thơ. Cũng nằm chung số phận mạn bờ, muốn tìm về ngày cuối tháng trầm tĩnh thả mình mới thấu Lời của sóng lắng đọng, nhịp nhàng. Lời của sóng- lời tình yêu rất riêng Phan Văn Thuần./.
12. 2015


12. 2015
__________
*Tên bài thơ trong tập.

Thứ Bảy, 18 tháng 5, 2019

Ủ ĐÊM KHÁT HẠT NẮNG GẦY, Nguyễn Thị Phụng


                           Ủ ĐÊM KHÁT HẠT NẮNG GẦY
             (Đọc Ngựa núi, tập thơ Trần Hoàng Vũ Nguyên, NXB. HNV- 2009)


      Xin trích nguyên đoạn: “…Thế giới của tôi vô số những mảng màu lẫn lộn vào chiếc màng nhện quá khứ và ngày mai. Trên khung cửa đời người, giữa cái náo động đến và đi tôi lặng im, mặc cho cảm xúc ngân rung tột cùng để biết rằng trái tim vừa thắp lên ngọn lửa bắt đầu cho một hành trình lặng lẽ/ thơ đến với tôi như người bạn đồng hành, khao khát hòa tan, khao khát yêu thương, và chờ đợi…”(… và tôi/ thay lời tựa)*. Khởi đầu Ngựa núi là “ Đêm trở giấc/ nhớ/ chơi vơi. Nghe mưa rụng hột/ buồn rơi rớt buồn” bật cái buồn nguyên sinh “Giọt sương ngậm nắng xuân mềm/ Chừng như thấm đẫm một đêm mưa nguồn”(Mưa nguồn)* của nữ sĩ tài hoa ấp ủ đêm khát hạt nắng gầy chính là chủ đề Ngựa núi ngỡ “đêm trầm mặc/ rưng rức dõi tìm” chùng cương mà lại “giật phắt lên bằng tất cả sức tàn/ hít căng ngực gió/…” bức phá cả tập thơ này.

           Khoảng khắc thế giới tâm hồn thi nhân đa chiều. Không chút dựa đẫm siêu hình phù trợ, theo nhịp trái tim, con chữ phơi ra nghe chừng khoáy động nghiêng về mảng đêm. Chỉ có đêm mới thỏa sức vẫy vùng. Bởi ngày đã cật lực áo cơm, nên người đọc dễ dàng đồng cảm không là nỗi buồn chông chênh, kết nối ê chề, nhưng thơ Trần Hoàng Vũ Nguyên ở tâm thế cựa quậy. Nữ quyền thật sự bình đẳng trong thơ chị. Dẫu là ngày, thì ngày với lá thông kim quyến rủ xa xót mê hoặc “… tôi vọc thời gian trong ký ức cuộc đời/ kiếm tìm mệt mỏi/ triền đồi túa những lá thông kim/ chân trần tứa máu/…/ những hình kim trên đồi thông kim/ nhói đau theo gió qua đồi/ tôi một mình xa xót tôi…”(Đồi thông kim)* cho tứ thơ nguyên vẹn, hạnh phúc ùa về với người sáng tác. Đúng vậy, dòng chảy của thơ là sẻ chia bắt nhịp, trở lại vùng đêm thầm lặng, nhưng tự trong sâu thẳm màng đêm ấy, lai láng ùa về “ Đêm/ khảm lên cánh đồng hoang/ những con gió biến động/ nước lắp xắp/ ngọn cỏ đẫm mình thao thức/ hai bờ đổ hạt/ con cá nhỏ búng mình đớp vệt sáng băng qua” (Đổ cảm)* là sự khám phá thăng hoa có cùng chủ đề (Đêm hé mở, Tôi và đêm, Thiếu phụ và trăng, Thầm lặng, Dẫu chân huyễn hoặc, Trầm khúc đêm đông, Gọi ngày, Kiếm tìm,…)*


        Đêm trong Ngựa núi là sự độc thoại nỗi cô đơn. Lắm lúc (Mỏi mòn, Thầm lặng)*, nhưng cái thầm lặng mỏi mòn ấy không dí bẹp, hướng về Nốt đam mê lấp lánh/ ngôi sao xa dẫn ta về với biển…”( Hướng về tâm bão)*bung nở những tứ thơ đầy khao khát, như một điều khẳng định đã đi là đến, đã yêu là cho, dấu ấn trong tim dễ gì nhạt nhòa:
      Đâu dễ gì
      anh đi vào nỗi nhớ của em
      Rong chơi
      giữa cuộc đời bề bộn
       Cũng chẳng dễ gì
      đưa anh ra khỏi kí ức của em…

                       (Yêu thương thật lòng)*
      Yêu thương thật lòng đáng trân trọng biết bao. Nhưng sự lệch pha, không hòa cùng dòng chảy, tiếng nói nhà thơ bộc trực hơn: “Sẽ không nhớ/ có là gì đâu phải nhớ nhung sầu/… Sẽ không nhớ/ có là gì đâu phải ngóng đợi từng giờ/… Sẽ không nhớ/ có nghĩa gì/ tiếng đêm rối loạn chỉ mình tôi/… Sẽ không nhớ/ dẫu cơn bão sa mạc thốc tháo đổ qua/ dẫu triều cường ngập ngụa dìm tôi/ nhất định không nhớ/...(Chiều thẳng đứng)*. Dẫu vô cùng khao khát, thánh thiện, nhưng sự thật: “Trái tim ngập dấu răng/ theo chiều thẳng đứng/ tôi” chẳng thể bi lụy, yếu mềm. Bản lĩnh chỉ chiều cảm xúc theo mùa nhủ lòng, tha thiết lắm. Ấy vậy, thi nhân trong cái Lặng im* cứ vật vã rất đời thường:
       Lặng im không có nghĩa là không nhớ
       Ngày không màu nào hẳn chẳng thấy nhau
       Đêm vật vã đâu cần nhìn vào mắt
       Mới biết rằng tim thổn thức khẩn cầu
       Lặng im có lẽ nào không nhớ
       Nhớ nặng lòng trả nợ câu thơ
       Nỗi nhớ lặng im nỗi nhớ bơ phờ
       Mùa xanh biếc tương tư nảy nở…
”.


       Ngựa núi của ước mơ vẫy gọi từ một Đồi thông kim* đặc trưng rất Đà Lạt, rất thi vị ùa vào trong mỗi câu thơ nữ sĩ đặc tả: “những ngọn nến của thông thắp lửa trời cao/ ẩn mình trong sương sớm/ tiếng động khẽ của gió/ nhịp đập của tim/ khua vào/ thổn thức/…/ Khoảng trời cao vẫn trong xanh/ tôi gom lá thông kim muốn níu ngày tháng cũ/…” Đến một Lang- Bian* ở độ cao đầy quyến rũ cho những ai muốn khám phá, chinh phục vẻ đẹp miền cao nguyên hoang dại, gọi mời sở hữu: “…Em, xanh một đời bí ẩn/ Phơi trần tinh thể nguyên sơ/…/ Em vẫn nồng nàn chờ đợi/ Sao ai quá đỗi ơ hờ/…/ Lần thôi! Xin người dạo thử/ Nghiêng nằm xõa tóc rừng hoang/ Lần thôi trèo lên sẽ hiểu/ Dẫu cho nhói gót trần gian/…”. Và chỉ cần ba khổ trong tứ thơ Lang- Bian tròn ý (tựa một Hồ Xuân Hương nhún nhảy Đánh đu, hay thắng cảnh Đèo Ba Dội kì bí kia), cái bản năng cá thể trữ tình được thay vào xúc cảm thăng hoa, mới mẻ rất phong cách Trần Hoàng cho “Ngày trỗi dậy/ dẫu vài triệu năm dự phần tĩnh mịch/ nhũng nhụa thạch nham/ em/ chờ…”(Núi lửa)*. Hay mong chút Đổi dòng*, để được Hồi quang*: “Quay về ngày để cười để khóc/ gần xa/ niềm vui nỗi buồn giấu trong những giấc đêm/ những hi vọng đâm chồi/ phá hủy ranh giới/ ngày và đêm…”.
             Ngựa núi Vũ Nguyên của 2009 khỏe khoắn trong bức phá ngôn từ, sở hữu cái đẹp không thiên về bản ngã. Những Mưa* và Cháy* làm mới sự sáng tạo từ một đơn từ, cụm từ ngắt dòng,… không còn là thông tin khẩn cấp báo động, mà miên man âm ỉ nhắc nhở hoàn thiện chính mình. Chính vì thế, thơ Trần Hoàng Vũ Nguyên len lỏi đến với những ai yêu chuộng thơ tự do, không siêu thực ám ảnh, nhưng là sự hòa nhịp chỉn chu giữa bác học và bình dân, bởi ý tưởng thơ gắn liền không gian, thời gian hiện hữu. Dù lựa chọn phông nền- gam màu đêm có lấn át, nhưng điểm sáng chút nắng gầy đủ để khi trổi cựa lại mạnh mẽ “yêu”. Đó mới là thi nhân./.
Tháng 5. 2014.
___________________
*Tên các bài trong tập thơ.

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2019

BỨC CHÂN DUNG CHỊ, thơ Nguyễn Thị Phụng


 BỨC CHÂN DUNG CHỊ
                  Tặng Nhà thơ Lệ Thu

















Em ngỡ là sóng
Sóng mách nhỏ… qua rồi
Em ngỡ là mây
Ừ, là mây
Chờn vờn tinh nghịch
Trên vầng trán an nhiên
chạm đêm ngày, chạm nắng mưa,
chạm đồi núi thung sâu,
chạm nụ cười và nước mắt,
chạm thanh xuân gian khổ, tự hào…
Chạm tiếng lên ba bi bô gọi mẹ
Ngày ấy xa con
Chị mang theo câu thơ dọc đường hành quân
Trăng bạc
Mũ tai bèo đội khói súng lửa bom
Chiếc áo bà ba len lỏi làng quê thôn xóm
đường kim mũi chỉ chẳng tà…
Xuân một chín bảy lăm- khúc khải hoàn ca
Chiếc mũ tai bèo vẹn nguyên màu xanh lá
Bình yên dòng sông, cánh đồng quê má
Tuy Phước ơi, trăn trở mà Điềm đạm Việt Nam*!
Trên vầng trán an nhiên
Đời chị
Xếp thành trang Nhật kí...* chiến trường xưa…
01.03.2019/ NTP
____________
*Tên tác phẩm Nhà thơ Lệ Thu.

Chị của ngày xưa...







Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2019

GIẢI THƯỞNG NHÂN DÂN, Nguyễn Thị Phụng


Truyện kí mini:
GIẢI THƯỞNG NHÂN DÂN

         Chợ chiều chen chúc chỗ ngồi.
       Tôi dừng lại cuối hàng cá bờ, chọn mua quả bầu non. Người bán rau ngồi bên cạnh ngước qua hỏi: “Xin lỗi, có phải cô… là cô Phụng đã nghỉ hưu?”. Tôi vừa gật đầu vừa dạ, đúng ạ! Người đàn bà ngoài bảy mươi, hơi gầy, đôi mắt sáng ấy nhìn tôi vẻ ưng ý: tôi đã đọc ở cô qua ba tập sách. Hay. Tôi ngạc nhiên: Vậy à, mà sách ở đâu có cho chị đọc!... Chị giữ cái nhìn thiện cảm: - Tôi mượn ở thư viện Tuy Phước. Mà sao sách cô không bán lại tặng vậy. Thay vì trả lời, tôi chỉ cười thăm hỏi: - Ủa, mà chị ở đâu? Chị nói là ở Phước Thuận, rồi hào hứng với bài viết về Bánh xèo ngày chủ nhật ở Mỹ Can, nào là Khi nhà thơ đi chơi ở Tây Sơn, nào là Nơi tình yêu giữ lại ở Lí Sơn nữa,…
         Tôi cúi người, đón bàn tay chị chìa ra ấm áp trong cái bắt tay lần đầu đầy xúc động: Cảm ơn chị, chào chị. Vẫn không quên trả tiền người bán quả bầu non, bước chân đã xa còn nghe chị tấm tắc: Văn đúng hay!... chen lấn trong buổi chợ chiều vội vã. Về đến gần nhà, đèn đường bật sáng, mới nhớ chưa biết tên chị là sao!...
24.03.2019/ Nguyễn Thị Phụng.

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2019

KHI GIỌT NƯỚC RƠI , Nguyễn Thị Phụng

  KHI GIỌT NƯỚC RƠI  



  (Đọc tập truyện ngắn Nụ hôn đầu của chim én của Nam Thi, NXB- Vh Vn. 2019).
      Không hẳn giọt nước trong lá sen kia mãi lung linh, rồi lá sen héo, nước sẽ bốc hơi. Sự chuyển động không khí, giọt nước rơi xuống đất. Điều kì diệu xảy ra. Thể như sau khi đọc tập truyện ngắn Nụ hôn đầu của chim én của Nam Thi cũng vậy. Giá trị văn hóa đời sống sẽ từng bước nảy mầm chỉ nhờ vào giọt nước ấy. Truyện ngắn chưa phải là thước đo thuần túy trong sự tinh lọc “thời cuộc” mà phận người là trung tâm. Nhưng với tập truyện ngắn đầu tay của Nam Thi góp vào đời sống tâm hồn bạn đọc sự ưu ái nào đó dành tặng tác giả hay tặng cho nhân vật trong từng cốt truyện đều không thiên vị.


      Sự đồng hành hai mươi lăm truyện ngắn được khép lại Trên chuyến xe buýt số 150*, có phải là chủ ý nơi gặp gỡ ban đầu vừa trẻ trung, vừa tử tế từ một góc nhìn đầy thiện cảm ở hai nhân vật: tôi và anh, để “Tôi thực sự mong gặp lại anh” đã là hiện thực “Tôi ngoan ngoãn leo lên yên sau xe anh”. Nhưng Người đồng hành* lại không thể níu giữ cái không thuộc về mình, nếu như chỉ có chung về sự lựa chọn thể chất như Thủy- nàng, với Thuận- chồng nàng lại có con với người đàn bà khác trên chuyến đi vượt mây trời kia. Ngẫm ra mỗi chi tiết xây dựng nhân vật, buộc phải dồn nén cô đọng trong sự liên tưởng vô cùng phong phú cho hạnh phúc chợt ùa đến, trọn vẹn hơn ở người cao niên (Bóng chiều trên đỉnh chóp vàng*, Giỗ người sống*, Nụ hôn đầu của chim én*). Khó nén cá biệt “Bản thiện” còn nảy nở ấp ủ sắc hương, cánh én chạm vào vô biên mây trời bất tận, dẫu Hiến pháp Nhà nước đã có Luật Hôn nhân và gia đình cũng bó tay trước những cánh cửa lộng gió kia ùa về ngơ ngác tuổi thơ, rồi tuổi thơ cũng được bảo bọc nuôi dưỡng (Nhành hoa huệ trắng*). Chỉ Một sao mai lẻ loi* trên đất Việt cũng được quan tâm chia sẻ, còn cái “sao hỏa” lạc xứ người định mệnh “Sao anh không biến đi” cạn tàu ráo máng ám ảnh nỗi lòng.
       Và khiLũy tre biến mất, con sông trở nên trần trụi, vô hồn. Mùa khô hạn, dòng sông thu hẹp như con mương cạn leo lách chảy giữa cồn cát lưa thưa những khóm rù rì cằn cỗi. Mùa mưa nước dâng cao mấp mé bờ kè… Không còn bóng những đọt tre quằn xuống mặt nước mùa đông, không còn tiếng gió xào xạc, kẽo kẹt với gió nam mùa hạ. Con đường gập ghềnh uốn lượn rợp bóng ngày nào nay nhường chỗ cho con đường bê tông thẳng tắp…”(Tảng đá mồ côi*) là tất yếu nhu cầu phát triển  xã hội, nên bà giáo Hương nhận ra sự lạ lẫm với chính con đường bà đã bao năm đi về kia khác nào việc ấp ủ những lá thư, tấm hình chỉ là mòn mỏi vô định, đốt không có nghĩa là xóa sạch kỉ niệm, trừ khi bà hóa thân với quá khứ riêng mình. Nhưng có những thứ văn hóa văn minh một thời muốn duy trì, thời gian là minh chứng như Bức tường rêu*: “…anh hiểu ông gắn bó với những kỉ niệm về căn nhà này mà bức tường rêu là gần gũi với ông nhất. Chính anh, ở tuổi bốn mươi, đã bắt đầu biết tha thiết với căn nhà tổ tiên nên đã chắt chiu mấy năm nay để về giúp cha tu sửa nó…”. Hay chỉ một Dấu chân hóa thạch* cũng muốn được hiện diện bên mình.


        Sự lặp lại văn chính là người, không thuộc bản năng mỗi cá thể, nó được bao hàm trong lớp tư duy thời đại, cũng không là trào lưu, xu hướng. Được xác minh qua sự chọn lựa giữa chân chính và lỗi lầm, vậy nên trong mỗi cốt truyện luôn gắn liền quá khứ gần và xa đan xen, khách quan trong từng sự kiện mỗi nhân vật chính, ít nhiều nhà văn dành thiện cảm về họ chính Đêm dài vô tận* ghi lại dấu ấn nhà văn dân tộc đề huề sáng tác văn chương khác nào Thế Uyên(1935- 2013), Mặc Đỗ(1917- 2015),… (nhà văn miền Nam trước 1975). Vụ án ngòi bút lá tre* từ tuổi thơ nơm nớp đòn roi, nhưng đành chấp nhận số phận cho cái kết tử biệt. Tử biệt khác nào sinh li. Nó song hành, không áp đặt, bởi viên đạn thời chiến chưa bao giờ biết ăn chay. Những phập phồng con nước, lênh đênh con sóng khơi xa sao có thể là yên tâm hơn, đọc lại đoạn văn để hiểu thêm nhận định: “Ở đây, có lẽ họ bình yên hơn những người trong đất liền cách họ vài cây số đang sống dưới làn bom đạn. Sóng biển dữ dằn nhưng không thù oán ai. Nếu tàu đắm, nhiều người có thể chết đuối nhưng không ai chết vì hận thù”(Sợi tóc mong manh*). Niềm tin cán cân đứng về giới trí thức “Sau mùa hè đỏ lửa” 1972, có lệnh tổng động viên. Vốn là một sinh viên tranh đấu ở Sài Gòn, thời thế buộc ông phải chọn lựa cầm súng và đứng về phía nào. Ông đã trở lại Sài Gòn liên hệ với bạn bè cũ… rồi thoát li”(Bóng chiều trên đỉnh Chóp Vàng).


        Chim có tổ, người có tông cũng là chủ đề trong Nụ hôn đầu của chim én. Cho người đọc thấu hơn những người mẹ chăm sóc trẻ em ở làng SOS, càng thương Thu, lớn lên từ trại mồ côi: “Lần đầu được thắp hương trước ngôi mộ mới xây, nàng ràn rụa nước mắt và khẽ gọi:- Mẹ ơi!”( Mẹ ơi*). Người vợ thẳng thắn dứt khoát, khẳng định: “Điều em quan tâm là đứa bé trong bụng cô ta. Nó phải có cha. Còn anh có nhận nó làm con hay không là chuyện của anh và cô ấy” (Người đồng hành*). Riêng Đốm lửa đêm ba mươi* có thể là bi kịch một cá nhân, mà gom lại là hạnh phúc một gia đình, thể như cổ tích giữa đời thường. Nhưng có lúc đầy vơi nỗi lòng như Thái, còn Tâm không muốn công bố bản di chúc, nhưng “xin được mang theo lư hương và tấm ảnh thờ…”(Di chúc một mối tình*) âm thầm trân trọng tình phụ tử thiêng liêng, tình anh em không bị sứt mẻ. Cách duy trì giá trị văn hóa ứng xử tình người từ sự ra đi vì thời cuộc và ngày trở về được mất những gì, thân phận đôi vai người đàn bà ở nhà lắm lúc nan giải, còn với khối óc những người đàn ông võ nghệ cao cường lại vô cùng từ tốn (Trước di ảnh người quá cố*) giữ hòa khí trong gia đình là mấu chốt truyện ngắn Nam Thi khi giải quyết Nợ tình của một linh hồn* cũng vậy.
         Đời sống văn hóa sinh hoạt nếp nhà trong truyện ngắn Nam Thi phong phú. Từ góc nhìn hoạt động mỗi cá thể trên từng chặng đường đời là sự kết nối sẻ chia nằm lòng trong cảm xúc nhà văn. Thật vậy, nếu không có từ Ánh mắt*: “một chiến sĩ biệt động hoạt động bí mật trong nội thành Sài Gòn…” ánh mắt đã thành ẩn dụ sự tiếp nối thế hệ xác minh lí lịch- cái hiện tại, không thể nhào nặn quá khứ áp vào hiện tại mà ràng buộc sự sáng tạo thế hệ hôm nay. Một Bức chân dung bỏ quên* không có tấm nhiễu điều phủ lấy, mà biết bao kỉ niệm tình đồng đội kiên cường, gian khổ, tri ân,… ùa về mất còn, khác nào bức tâm thư gởi lại thể như truyện kí ghi nhanh nhưng đầy đủ sự kiện, chứa chan cảm xúc nhân vật “tôi”, nổi bật vẻ đẹp Út Thuận- người chiến sĩ cách mạng một chút tự trào : “Địa phương bảo khai lí lịch để làm hồ sơ cựu chiến binh, tao cũng làm biếng chưa làm”. Một Tiếng hát dưới hầm* thánh thót thuở nào trong chiến đấu còn lại cái Zippo, ngọn lửa chân lí ấm áp chuyền tay lưu giữ.


          Trong đó, giá trị văn hóa tín ngưỡng luôn được duy trì như Người có hai nấm mồ* ngậm ngùi đau đáu khi con mình bị phơi xác… Truyện Con ngựa già của cha tôi* không chỉ là niềm tự hào về truyền thống gia đình, về người cha- công việc báo chí, trong những ngày bị đày Lao Bảo, kể về chú Trị- nghĩa tình, còn Hởi- con ngựa trung thành lúc sống, hay khi chết cũng đều tưởng nhớ nén hương. Góc Bếp lửa cuối đông* gợi lại văn hóa sinh hoạt gia đình ấm áp thuở nào giờ chỉ là kỉ niệm “… những lần thấy người ta đốt đồng, un trấu, nhìn thấy lửa và ngửi mùi khói là tôi nhớ cảnh chị em tôi sưởi mồ mẹ ngày đó. Mỗi lần cúng mẹ, chị lấy cái nồi một ra nấu cơm cúng và lần nào chị cũng khóc…”Nước mắt cũng vơi dần, nhường lại nụ cười đồng thuận trong Chuyện tình của cô đào thương* đi tập lại tuồng, ngỡ nghệ thuật sân khấu dân gian bị lãng quên, giờ được củng cố.  

         Văn học là gương mặt tiêu biểu văn hóa đời sống. Đọc truyện ngắn là tìm thấy văn hóa một thời. Không cần kiểm chứng, bởi trên mỗi trang truyện Nam Thi, thể như người thật việc thật ngoài đời ung dung nhập hồn con chữ. Những nhân vật phản diện có thể chỉ lướt qua, nhà văn chú trọng ở cốt truyện với nhân vật chính của mình, đó là cái đẹp tấm lòng nhân hậu mà bạn đọc nhận biết (Bếp lửa đêm ba mươi*, Người có hai nấm mồ*, Người đồng hành*, sao mai lẻ loi*,…). Có những truyện qua những biến cố sự kiện làm nên tính cách nhân vật, dẫu khách quan, nhưng vẫn thể hiện thái độ nghiêm túc của tác giả đối với thời cuộc đã qua (Tiếng hát dưới hầm*, Bức chân dung bỏ quên*,…). Hình tượng mỗi nhân vật trong Nụ hôn đầu của chim én, dẫu có lúc xưng tôi- tư cách tác giả, hay tư cách nhân vật trong tác phẩm cũng đều bộc lộ quan điểm sáng tác rất Nam Thi. Chỉ có điều, quá chú trọng cái chốc lát, cái khoảnh khắc thể loại truyện ngắn mà dựng lên cốt truyện. Đây là thế mạnh của Nam Thi, tiếp nối G. Maupassant,… Đôi lúc thiếu vắng một quá trình đời người như Chí Phèo (Nam Cao), Nhà mẹ Lê (Thach Lam), Kẻ học việc (Ma Văn Kháng), Hổ gù (Lại Văn Long)… ở một số truyện ngắn hiện đại thường gặp.
        Phải chăng thời thế và văn hóa vùng miền nuôi dưỡng tâm hồn nhà báo, nhà văn Nam Thi. Nụ hôn đầu của chim én chính là phong cách tác giả luôn tiềm ẩn vẻ đẹp tự trong giấc mơ, tất yếu thuần phong mĩ tục mãi được duy trì, như khi giọt nước rơi cho hạt kịp nảy mầm sự sống./.
Tháng 03. 2019/ Nguyễn Thị Phụng.
 _________________
*Tên truyện ngắn trong tập.