Sắc hoa râm bụt*
Khi Yến tỉnh dậy là đúng hai đêm
ngày trên con tàu ra quần đảo Trường Sa. Nắng, cái nắng giữa mùa xuân cứ vàng
như đổ mật. Gió, con gió thông thốc mang theo hương vị biển mặn mòi len lỏi áp
vào sau đôi mắt kính trắng gọng nâu, còn phần từ sóng mũi trở xuống đến cổ Yến
cẩn thận che kín bằng cái khẩu trang màu xanh ngọc. Ngày mới ra trường khao
khát đến Trường Sa giờ đã là một hiện thực. Sự mệt mỏi về thể chất cũng bị tan
biến ngay khi cô đưa mắt nhìn bờ rào thưa chỉ vỏn vẹn có mấy bụi râm bụt với
những sắc đỏ của năm cánh hoa uốn cong đều đặn, còn cái nhụy đỏ như một ống dài
thòng xuống phía dưới cùng tỉa đều năm cọng nhỏ lấm chấm phấn hoa vàng đong đưa
trong gió lay thức kỉ niệm tuổi thơ nhè nhẹ ùa về trào dâng như con sóng ngoài
kia.
Đã từ lúc nào, cứ những buổi sáng chủ nhật nghỉ
học dù là ngày rằm hay mùng một, từ phía bên kia hàng rào chú tiểu Mẫn có bận rộn đến mấy cũng đều ngắt
năm cái hoa râm bụt đỏ gọi sang bên này: Ra đây nhận
quà chú tặng. Yến dạ thật to nhanh nhẹn đưa bàn tay
nhỏ nhắn vẹt nhánh lá xanh bóng láng hình trái tim có
răng cưa, vội vàng chạy ra sau hè lấy lon sữa bò trống
một đầu đổ nước vào để cắm cho hoa khỏi héo, rồi
chơi trò cô giáo với lớp học hay trò mua bán cùng các
em của mình,... Có lúc chú sang nhà còn bày cho Yến
biết cách cài hoa lên hai bím tóc thật đẹp, lúc ấy Yến
mới vào học lớp năm. Còn chú Mẫn ở chùa gần mười
lăm năm rồi. Nghe nói ngày vào chùa chú Mẫn cũng
là một em bé chừng năm sáu tuổi, sau đó được sư thầy
làm khai sinh cho đi học hết bậc phổ thông ở trường
huyện, sau tiếp tục đưa vào trường trung cấp Phật học
ở tu viện Nguyên Thiều như những tăng ni khác, nhưng
chú bảo không muốn xa thầy, muốn hôm sớm với thầy
trong cảnh chùa mà thôi.
Khuôn vườn nhà Yến nằm sâu cuối làng cạnh chùa
Vi Nhân, gần một nhánh nhỏ dòng sông Côn chảy qua,
chỉ trồng các loại cây ăn quả theo mùa và xen canh
những khoảng trống là dày đặc những bụi sả bán theo
vụ nên ít nhọc công chăm sóc. Ba mẹ Yến chỉ tập trung
vào mấy sào ruộng nay lại thêm nghề đánh bắt cá cũng
bữa thiếu bữa đủ cho năm miệng ăn. Sau Yến còn hai
đứa em sinh đôi. Ba mẹ của Yến là người tàn tật không
phải bẩm sinh. Chân trái của ông hơi khập khiễng đó là
lúc đưa mẹ Yến đến bệnh viện sinh em, rồi trên đường
về ba Yến bị tai nạn giao thông chứ ba năm ở chiến
trường Tây Nam đầy ác liệt mà đạn mìn bôn-bốt cứ như chừa ba Yến ra; Còn mẹ Yến nhổ răng từ lúc bé bị
nhiễm trùng phải mổ lại làm má trái tóp vô cho đến
giờ khuôn mặt cứ méo qua một bên. Nhưng cái tình
của họ trong gia đình mới là đầy đặn đáng quý. Có đôi
lúc những đứa em Yến len lén ngắt trộm một cánh hoa
dù đó là hoa râm bụt của chùa thế nào tối về Yến cũng
mách tội cho ba mẹ biết.
Tiếng chuông chùa không ai cầm được cứ ngân nga
nhẹ nhàng khúc ru cho cả nhà Yến say trong giấc ngủ
sau một ngày lao động. Thường mỗi chiều cuối tháng
hay trước rằm, có chú Mẫn sang chuyện trò với ba mẹ,
thế nào đêm hôm đó Yến nằm ngủ với mấy em trên
cùng chiếc giường lén mở mắt nghe và dõi theo ba mẹ
thầm thì, rón rén bước chân đi ra khỏi nhà... đến sáng
sớm đã thấy ba mẹ về vai khiêng, tay xách nào là gàu
thùng, nào là tấm lưới chài bao nhiêu là cá. Được ăn
những con cá tươi nấu cháo thơm phức lên đến tận mũi
nên mấy chị em của Yến ríu ra ríu rít cả buổi, còn đòi
theo ba mẹ ra sông nhưng đâu có được. Lớn lên một
chút, Yến phụ giúp công việc cho ba mẹ, mới biết có
một số người mua cá sống ngoài chợ đem vào chùa để
phóng sinh cầu lợi, chú Mẫn thương ba mẹ Yến khó
khăn lắm mới nuôi được mấy chị em Yến ăn học nên
đã lén sư thầy chuyện ấy... Một cây bút đẹp, một quyển
sách hay, một chiếc áo mới,... của chị em Yến đâu chỉ
từ những hạt thóc hạt gạo của ba mẹ thường ngày ngoài
đồng mà còn là những con cá sông mắc lưới từ lúc rạng
đông nhiều nhất là ngày rằm, mùng một.

Dần dà những con cá được “phóng sinh” cũng mắc
vào những tấm lưới khác nhặt hơn, lớn hơn nữa. Cảnh
ra vào chùa ngày càng đông đúc, người người cũng
muốn tự tay mình khấn Phật rồi trực tiếp ra sông thả cá
xuống dòng nước trong veo kia. Những tấm lưới nằm
im lìm hai bên bờ ngược dòng chảy chờ đến khi bóng
người quay về dưới tán cây bồ đề trong sân chùa, mới
vội vàng chia khu vực phóng mình xuống sông. Dù cuộc
sống vì bát cơm manh áo nhưng là lưới của ai người ấy
gỡ, mong đức từ bi chúng sinh từ thập phương trở về
chùa ngày càng đông hơn, phóng sinh cá càng nhiều
hơn. Mong thì vẫn mong nhưng cũng có người đã từng
bị nghe chửi nào là đồ súc vật hết nghề làm ăn hay sao
mà chờ người ta phóng sinh cá chưa kịp xuống nước
đã quăng chài kéo lưới, như ăn giựt ăn cướp của người
khác, đằng nào cũng mắc xương chảy máu chảy mủ ra
cổ họng cả dòng họ mày, rồi... lớn tiếng: trời đất xui
chi cứ ngày mùng một, ngày rằm gặp lũ mặt người ruột
chó, chứ ngày khác thì đây không tha đâu!... Tiếng chửi
rủa, tiếng hì hục kéo lưới hòa vào tiếng chuông chùa
rồi cũng nguôi dần tan vào hư không. Chuyện “phóng
sinh” cá bé cá con cũng là việc làm có ý nghĩa, vì chúng
chưa kịp lớn chưa đúng độ khai thác. Nếu ngư dân tiếp
tục đánh bắt kiểu “giã cào” chẳng mấy chốc cá tự nhiên
trên sông trên biển cũng cạn dần.
Hết chuyện cá nước rồi tới chim trời cũng được
phóng sinh. Mà nói theo thuyết nhà Phật phóng sinh
cho loài vật đã có từ lâu lắm vì kiêng sát sinh, ngẫm
ra việc làm ấy cũng phù hợp với việc bảo tồn các loài
vật quý hiếm, hiện nay cũng có nguy cơ diệt chủng.
Nhưng có một số vật nuôi để lấy sữa, lấy trứng, lấy thịt
là nguồn thực phẩm chính cho con người đáng được
duy trì và phát triển ngày càng rộng khắp. Bởi nuôi vật
là để dưỡng sinh kia mà. Thì thử nghĩ việc phóng sinh
và dưỡng sinh đều cần thiết như nhau?!... Tiếng gù uất
ức của những chú chim câu, tiếng lích chích bức bối
của những chú sẻ đã bị nhốt trong những chiếc lồng sắt
treo dày đặc trên cây nhãn ngoài sân, cả trên hiên nhà
bếp sau chùa tính ra đã gần ba bốn ngày. Và cứ sáng
chiều như vậy, chú Mẫn đong lon thóc đổ cho chúng
ăn, hay khi chú đi ra cổng trước lúc vào sân sau chúng
đều xoay đầu đưa mắt nhìn theo. Chỉ có mấy ngày như
thể cả tháng cả năm gần gũi thân thương lắm. Sáng
rằm hôm ấy, sau buổi đọc kinh cùng sư thầy, chú Mẫn
mở chốt bật các cửa lồng sắt rộng ra lần lượt từng con
bay lên cành khế gần, ngoái cổ nhìn lại, rồi lấy đà bay
cao hơn, xa hơn... Còn đêm đến chú Mẫn cứ trằn trọc
có phải là nhớ đến lũ chim câu chim sẻ không, chú
đã từng thưa với sư thầy về những mơ ước của mình,
nhưng đã gần hết năm rồi, thêm một tuổi nữa mà sư
thầy cứ điềm nhiên ngồi niệm Phật. Còn hôm nay chú
mạnh dạn sẻ chia từ những lũ chim phóng sinh cứ đến
sáng bay về chầu chực ăn những hạt thóc của chùa, chú
là thanh niên há nào... chưa nói hết câu, sư thầy lẩm
nhẩm Mô Phật! Mô Phật!... Con đã suy nghĩ kĩ chưa?
Mà con không phải tự xuất gia như thầy, thầy đâu dám
ép! Thầy không ngăn cản mà cũng không động viên.
Con cứ thực hiện theo ý của mình, chọn con đường nào
đi cho hợp đạo làm người, hợp lẽ ở đời thì cuộc sống mới có giá trị. Vậy theo lịch tháng này con không phải
cạo đầu nữa! Mô Phật, Mô Phật!...

Như thường lệ, chú Mẫn đứng trước chánh điện gõ
từng tiếng mõ chăm chú nghe thầy đọc kinh. Sao hôm
nay cánh tay phải của chú như thể rộn ràng muốn kết
thúc hồi chuông cho nhanh. Phải chăng là tiếng hát
“Lá còn xanh như anh đang còn trẻ, lá trên cành như
anh trong toàn dân... anh trai làng...” trên loa phóng
thanh xen lẫn tiếng chuông chùa buổi sáng sớm ngân
vang thúc giục. Chiếc lá còn xanh trên cành như trái
tim đầy nhiệt huyết của một chàng trai ở độ tuổi hai
mươi tư, há nào tự tách mình ra khỏi cành cây sum
suê rợp bóng chở che nụ cười của những em bé thơ
ngây từng ngày từng giờ cất cao tiếng hát, chở che cho
mặt đất lên xanh phủ kín nấm mồ nằm yên trong lòng
Mẹ mà những người từng một thời trai trẻ đã xông xáo
tiến công trực diện với ngoại xâm,... Cái màu xanh lá
là sức sống của cây. Xào xạc bên nhau những trưa hè
oi bức, lặng lẽ chống chọi cái sắt se khi đông tràn về.
Dẫu thường ngày lá phải chịu đựng nắng mưa gió bão
và khi lìa cành có thể tự hào đã từng cống hiến tuổi
xanh... Còn bên kia hàng rào râm bụt, bé Yến mười
bốn tuổi đang học lớp 9 chuẩn bị đến trường, nghe rõ
tiếng cô phát thanh... Rồi dáo dác nhìn sang chùa như
thể tìm chú Mẫn muốn nói điều vừa nghe được. Cả nhà
cháu đều quý chú Mẫn, thương chú Mẫn nữa, chú biết
không?!... Hoa râm bụt của chú ngày nào chỉ có sắc đỏ,
bây giờ mới tỏa hương. Hương được tỏa ra từ người
cầm hoa chính là chú Mẫn.
Vậy thì... ở nhà tiếp tục làm cô giáo dạy em học.
Chú là cánh chim trời tất bay đến nơi nào yêu thích, rồi
đến một lúc nào đó sẽ phải trở về ngôi chùa đã nuôi
dưỡng tuổi thơ chú, nếu không có nhà chùa chưa chắc
chú có được như ngày hôm nay... Nhưng với sức lực và
tầm vóc như thế này thì... chú không thể ở lại... Vừa
nói, một tay chú Mẫn ôm Yến vào lòng, một tay vuốt
lên bím tóc đuôi gà nguây nguẩy đỏ hoe...
Không thực hiện được ước mơ làm cô giáo, Yến
học tổng hợp chuyên ngành báo chí. Thời gian ngỡ như
chầm chậm, tính ra đã hơn mười năm rồi. Mái tóc đỏ
hoe nguây nguẩy ngày nào cứ ngong ngóng cánh chim
trời kia được một lần gặp lại. Sao cánh chim trời bay
không biết mỏi. Từ bi của một chú tiểu lên chức thầy
không có ruột rà máu mủ thì cũng có bổn đạo, xóm
làng chứ! Hay là chú Mẫn sợ cái nhìn của Yến ngân
ngấn nước hôm chia tay đầu năm ra quân. Chắc là vậy
quá! Ai bảo Yến khóc. Nhớ những buổi giao lưu của
trường với đơn vị bộ đội kết nghĩa, không có một ai
trùng tên với chú Mẫn hết. Chú đến đâu khi giữa thời
buổi công nghệ thông tin liên lạc chỉ cần nhắp chuột,
nhấn nút là có xa ngàn dặm cũng nghe rõ cả tiếng nói,
nhìn thấy cả người ngồi nói chuyện với mình nữa. Hay
là chú... Yến không dám nghĩ tiếp!...
Ai dám bảo hoa râm bụt là hữu sắc, hữu sắc thì
càng đẹp đóng góp sắc màu cho cuộc đời thêm sinh
động. Sắc lá biêng biếc bóng mượt, sắc hoa đỏ thắm
giữa nắng vàng lại càng đẹp hơn. Hoa nào lại không có
sắc, còn hương ư?!... Có loại có mùi hương dìu dịu nhè nhẹ thoang thoảng, có mùi hương nồng nặc ngai ngái
hôi hôi,... đâu chỉ đều nhằm quyến rũ con ong cánh
bướm chập chờn đến hút mật, thụ phấn cho hoa mà
chính bản thân hoa không tự làm được, mùi hương còn
đánh lừa khứu giác cho con người mê hoặc. Chỉ riêng
râm bụt tinh khiết lắm, ấy thế mà ngày xưa chú Mẫn chỉ
hái mỗi hoa râm bụt cho Yến chơi, còn bảo yên tâm với
loài hoa này, chị em Yến khỏi bị ngộ độc mùi hương...
Con gió cát, gió muối sát lên tay người cứ rít vào
da thịt Yến, cô ra khỏi phòng khách, bước chân xuống
hai bậc tam cấp mà mắt không rời bụi râm bụt suýt
nữa thì đụng phải anh nuôi trong tiểu đội hậu cần từ
dưới bếp đang cầm phích nước đi vào hớn hở thân mật
bắt chuyện:
- Hình như trong đất liền không có loại hoa râm
bụt này phải không chị!...
- Dạ...! Dạ không phải ạ!... Yến giật mình ngạc
nhiên đáp lễ cứ ngỡ như người đối diện biết hết điều
Yến vừa nghĩ đến.
- Chị ơi, trong đoàn ra đảo đợt này có mười một cô
vừa là nhà báo, nhà văn, nhà thơ và có cả nhà “ca” nữa,
thế thì xin lỗi chị có thể bí mật trước, chị thuộc “nhà”
nào để chiều nay có buổi giao lưu văn nghệ chúng tôi
còn chuẩn bị quà tặng riêng cho các “nhà” đấy nhé!
Yến ngẫm nghĩ “nhà ca” là ca sĩ, tủm tỉm cười
để lộ đồng tiền nho nhỏ bên trái rồi thể như đánh
lạc hướng:
- Nếu như em thuộc diện bốn nhà thì anh có bốn phần quà nào cũng bật mí cho em biết trước có
được không?...
- Câu hỏi khó trả lời quá chị ơi! Nếu “chị” thuộc
diện khác như nhà “tôi” thì... đơn giản, bí mật và đầy
bất ngờ hơn chẳng hạn đưa môi mình đặt lên má nhà
“tôi” theo sau là tiếng vỗ tay kéo dài của đám lính
chúng tôi đua cùng tiếng sóng bất tận...
- ...
Yến ngượng đỏ mặt, nếu như trong đất liền thì thế
nào anh lính cũng bị Yến chỉnh lại một câu, nhưng lúc
này Yến trợn tròn đôi mắt, rồi cả hai cùng cười.Yến
theo anh nuôi vào khu nhà ăn khang trang sạch sẽ. Trên
mỗi bàn dành cho bốn người đặt một cái mâm i- nôc
hình chữ nhật nhiều ô đầy kín thức ăn: Rau xanh đã
luộc chín, nước mắm ớt tỏi, bốn con cá nục lớn chiên
vàng, thịt heo xào với măng khô, một nồi canh chua
nho nhỏ bên cạnh thau cơm trắng ngần nóng hổi phả
hương thơm phức mời cả bàn cầm đũa cho buổi trưa
đầu tiên dừng chân lên đảo. Người lính trẻ trong bộ
quân phục hải quân ngồi đối diện mời cơm và tự giới
thiệu mình ra đảo gần bốn năm, lúc đầu nhớ nhà ghê
lắm, ở riết trên đảo đâm ghiền tiếng sóng rì rầm chị
ơi. Yến cười đáp lễ rồi tập trung đưa đôi đũa gắp một
miếng cá bỏ vào miệng nhai tấm tắc khen ngon quá!
Các anh quanh năm thưởng thức cá tươi như thế này thì
còn gì bằng... Nói đến đây, Yến nhớ mỗi lần trong mâm
cơm mẹ Yến tự hào một thời thanh niên nhờ quen tay
và biết chế biến thức ăn nênba Yến nấu ăn khéo lắm,
rồi Yến vanh vách theo dòng hồi tưởng đầy tự hào là thời ba Yến là bộ đội chiến trường Campuchia từ năm
1978, đương chức binh nhì, rồi năm sau lên được binh
nhất nhưng không trực tiếp cầm súng nữa vì bị sốt liên
miên, ba Yến được đưa về quân khu điều trị, tuy là sức
khỏe có yếu đi nhưng dạn dày rắn chắc hơn thời còn là
học sinh phổ thông nên ba Yến xin được chuyển làm
công tác hậu cần ở biên giới Tây Nam đất nước. Cái
nắng giữa mùa khô ở Tây Trường Sơn rông rốc, thuận
tiện cho việc bếp núc lửa củi ít vất vả so với mùa mưa.
Nhưng dẫu là mùa mưa hay mùa khô, để có từng chảo
cơm trắng thơm phức không như bây giờ chỉ vo gạo và
đổ vào nồi, canh mực nước cắm phích điện nấu chín là
dùng ngay. Phải tội lúc ấy chưa có máy lọc sạn, muốn
nấu cơm trước hết phải ngồi hàng giờ đãi gạo, lúc đầu
chưa quen, nên khi ngồi vào bàn ăn cơm chính ba Yến
lại nhai phải những hạt sạn còn sót lại làm ghê cả hàm
răng chẳng thấy cơm ngon chút nào. Ba Yến hay tự
khen là để nấu được một nồi cơm chín ngon ở biên giới
còn khó hơn đánh giặc!... Bởi xưa nay ba Yến chỉ ăn
cơm người khác nấu, đâu biết cái vất vả phải ngồi canh
lửa củi thế nào để cơm không bị tầng lớp: sống, nhão,
cháy, sạn. Từng chảo canh rau thịt ngọt thơm phức mùi
hành, những con cá hấp đến tận núi rừng càng vàng
giòn hơn trong mỗi chảo dầu ăn cho ngon miệng. Đâu
riêng gì ba Yến, các chiến sĩ hậu cần ai cũng vậy.
Vết thương chiến tranh biên giới trên đất liền sau
những năm bảy lăm của thế kỉ trước hằn sâu trong kí
ức mỗi công dân Việt Nam và khi khơi gợi thì nó cuồn
cuộn theo cùng con sóng ngoài khơi cứ đỏ quạch như
râu ngô trên nương rẫy khó mà hòa trong biển cả, hay
đó còn là da thịt máu xương những chiến sĩ nằm lại
quanh đảo Gạc Ma thuở nào. Chỉ nghĩ đến thôi mà
khối chì từ đâu như chực sẵn thừa dịp đè lên trong lồng
ngực của Yến, Yến cúi xuống cố và cho hết miếng cơm,
nhưng chén cơm vẫn còn nguyên, không dám nói thêm
cái điều mất mát đau thương mà các anh nơi đây đang
từng giờ từng ngày đương đầu với thử thách lớn..
Lúc này bất chợt cả hai cùng im lặng. Cái im lặng
không lâu khi anh lính hậu cần bắt gặp ánh mắt Yến
chớp chớp liên hồi... Bởi cả hai đang nghĩ về những năm
tháng chiến tranh về những người đi trước, những đồng
đội của cha anh, của bạn bè đang ngày đêm canh giữ
biên cương hải đảo, rồi nghĩ tự dưng mình lại... là cán
bộ tuyên huấn, mà được làm cán bộ tuyên huấn càng
tốt chứ sao đâu!... Anh lính chuyển lại “đề tài” nhắc
Yến là chị có thích quanh năm thưởng thức món cá
tươi như thế này không? Yến cũng đã hiểu ngồi trong
bàn ăn với nhau cần thoải mái hơn nên chị mau mắn:
- Nếu em thích thì sao, còn không thích thì sao!
- Nếu chị thích thì ngay chút nữa đây làm lễ đổi vị
trí nhá!
Vừa nói vừa cười, anh lính như được thể sẻ chia
cũng có người chẳng bao giờ muốn đổi vị trí như trung
úy của tôi, say sưa mấy năm liền hết ở trên nhà giàn
này đến nhà giàn khác, chỉ lên đảo chưa giáp tuần lại
nhớ nhà giàn mới lạ chứ! Anh ấy còn nói ở trên đấy
bốn bề là gió đâu cần điều hòa, bạn với cánh chim trời, độc nhất chỉ một loài chim biển. Chúng là là bên nhà
giàn rồi đậu trên vai các chiến sĩ, có một điều lạ là khi
anh ấy đưa tay vuốt ve mỏ quặm chúng, thì chúng như
thể được dịp ngẩng cái đầu lên cao như muốn bảo rằng
loài hải âu đâu chỉ bền sức ở đôi cánh dài mà rất lợi hại
chính là ở cái mỏ này thôi. Yến bảo ước gì được gặp
trung úy của anh để nghe kể tiếp về loài chim biển dễ
thương ấy!.. Anh lính thao thao như được dịp ngợi ca
cấp chỉ huy của mình, vừa nói vừa nhìn ngón tay áp út
trên bàn tay trái của Yến đeo chiếc nhẫn có đính một
hạt đá trắng, anh chững lại: Chị biết không, đúng ra
giờ này các anh chị được ngồi dùng cơm cùng trung úy,
nhưng vừa rồi vợ thiếu úy Thắng sinh chưa giáp tháng,
nên anh ấy trực thay phiên cho thiếu úy Thắng trở lại
Trường Sa lớn chăm vợ một tháng nữa. Hay chị ở lại
trên đảo nổi với chúng tôi có tiếng nói cười của phụ nữ
rộn ràng hơn. Yến phân vân trả lời đi theo đoàn mà!
Chị còn định nói thêm chỉ hai tuần nữa... rồi chị đưa
bàn tay phải che kín chiếc nhẫn đã đính hôn trong ba
tháng trước khi ra đảo. Nhưng lúc này ở đây nói ra cái
điều ấy thì... không thể, chị hẹn chờ dịp khác sẽ cùng
một người nữa ra đảo thăm các anh và biết đâu đất
lành chim đậu!...
Nghe kể lại trong đoàn có hai Yến, nhưng có phải
Ngọc Yến tuổi chưa tròn trăng sang chùa chia tay rồi
theo sư thầy xuống sân vận động huyện tiễn anh lên
đường, chú tiểu Mẫn ngày nào giờ ngồi chăm chú lên
màn hình vi tính tìm trên gương mặt quen thuộc và
nhận ra cái nhìn sắc bén trong đôi mắt đen dưới hàng
mi cong vút. Đúng là Yến rồi! Yến của anh, nhưng sao
không là cô giáo!... Những ý nghĩ thoáng qua rồi vụt tắt
khi con sóng lớn đập mạnh vào bờ đá, anh giật mình
với những cảm xúc riêng tư gò bó quá. Với anh, nghề
nào cũng vậy, vinh quang sẽ dành cho những người
hoàn thành nhiệm vụ, ý thức thái độ tích cực với công
việc luôn được trân trọng. Anh vẫn hằng nhớ và thầm
ước ao Yến làm cô giáo để sáng sáng những cánh râm
bụt bung mở trong lon sữa bò trên đầu hè mười lăm
năm trước kia giờ chỉ là kỉ niệm!...
Anh nhìn ra ngoài có một chút gì đó thể như nuối
tiếc, thể như khát khao, không sao tránh khỏi cái nắng
hạ vàng tự nhiên của trời đất được, có lẽ nắng hạn sẽ
chỉ kéo dài theo mùa, còn sắc hoa râm bụt trong mắt
anh vẫn thắm như xưa...
5.5.2014
*Trích NƠI TÌNH YÊU GIỮ LẠI (NXB HNV, 2018)