CHỈ LÀ CẤU TRÚC HÌNH THỨC (trích Lặng trong hương lúa, 2014)
Dân gian đã từng cảm nhận chiếc áo không làm nên thầy tu,
phải chăng hình thức chưa phải là nhân cách con người. Rồi tục ngữ cũng có câu
“Người đẹp vì lụa” chỉ để ngợi ca hình thức. Không, tất cả muốn làm nên giá trị
chân chính vẫn là “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” cho mọi đối tượng. Như thế thì thị
hiếu thẩm mĩ thể hiện ra trong lúc nào. Nhu cầu cuộc sống đâu chỉ có ăn no mặc
ấm chăm chút cho thể chất để bản năng con người tồn tại giữa thế gian này. Cái
thiết yếu từ xưa đến nay con người tồn tại là giá trị tinh thần. Giá trị tinh
thần ấy chính là văn hóa người Việt
Cấu trúc hình thức ở thơ ca dân gian luôn có vần vè cho người nghe dễ nhớ dễ thuộc như tục ngữ là từ kinh nghiệm thực tế cuộc sống “ăn có nhai, nói có nghĩ”, … thành ngữ thì dùng hình ảnh như làm mực thước vất vả gian lao “lên thác xuống ghềnh”,… ca dao là tiếng nói tình cảm, là câu hát có chương khúc nâng cao hơn theo thể loại truyền thống diễn ca sử dụng thể lục bát, thể song thất lục bát, lục bát biến thể,…
Cấu trúc hình thức ở thơ ca trung đại lại ảnh hưởng một phần thơ Đường Trung quốc. Thể ngũ ngôn tứ tuyệt, thể thất ngôn tứ tuyệt, thể thất ngôn bát cú như Muốn làm thằng cuội của Tản Đà, nhưng Tản Đà lại là gạch nối của thơ ca Trung đại và hiện đại (tác giả sử dụng cấu trúc thể thơ trung đại mà hồn thơ hiện đại), một phần sử dụng thể truyền thống như ca dao tiêu biển một số truyện nôm diễn ca hay truyện thơ như Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn…”
Cấu trúc hình thức ở thơ ca hiện đại (thế kỉ XX) kế thừa thơ trung đại còn tồn tại, thơ tự do mà phong trào Thơ Mới những năm ba mươi cho đến nay còn duy trì và phát triển cơ bản là nhịp điệu của câu thơ. Tiêu biểu từ Tình già của Phan Khôi đến Nhớ Rừng của Thế Lữ,…
Những năm 45 đến 75, cấu trúc thơ duy trì và phát triển của một số nhà thơ tên tuổi từ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đến Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng,… và những nhà thơ trưởng thành trong tuyến lửa Trường Sơn có Phạm Tiến Duật, Dương Hương Li, Hữu Thỉnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lệ Thu,…
Đến những năm 1990, 2000 thì một số nhà thơ Việt chuộng lối thơ Tân Hình thức - New Formalism. Như bắt nguồn từ Pháp với từ thi phẩm Jean Ristat, Từ Khúc Dục Mùa Xuân Rảo Bước, đăng trên báo La Nouvelle Critique giữa 1977-1978, thể thơ thông dụng là Alexandrin, 12 chân (âm) và tiếng Pháp đa âm, cứ mỗi dòng 12 chân thì xuống hàng, bất chấp cú pháp và từ vựng. Còn ở Mĩ từ những năm 70, 80 thì thơ Tân Hình thức với cách vắt (ngắt) dòng tự nhiên (thơ không vần, nhịp điệu tự do, cứ đúng số chữ theo quy định của một bài có thể mỗi câu năm chữ, sáu, bảy, tám, chín, mười chữ tùy cảm hứng của người sáng tác, đủ mọi đề tài trong thế giới con người , thanh tao có, dung tục có, nhìn hình thức xuống dòng vẫn trọn ý cho một câu, ta biết đó là thơ Tân Hình thức) Mãi đến mười lăm năm sau, với tập thi tuyển Những Thiên Thần Nổi Loạn theo New Formalism của một số nhà thơ Mĩ đã thu hút số ít tác giả nhất là lớp trẻ ở Việt Nam mở ra cách lựa chọn cấu trúc câu chữ vô cùng hấp dẫn khả năng sáng tạo của họ. Như vậy từ đầu thế kỉ XXI đã có ít nhiều người đón nhận (khoảng 150 người). Chẳng hạn bài thơ thứ nhất trong cách kể và tả:
Từ những bước chân đi
“Huế, Sàigòn, Hà Nội, Hai
mươi năm xa vẫn còn xa ..” (*)
tôi trở lại ba mươi sáu
phố phường Hà Nội mỗi ngày
thêm một cổ xưa – như cô
gái ngồi chồm hổm ở chợ
Đồng Xuân rao hàng lẫu cá
lẫu đồ biển, lẫu thập cẩm
mời anh ngồi xuống đây uống
bia Hà Nội, đặc sản quê
hương, ôi mấy mùa chinh chiến
Huế của tôi có “O” về
qua Cửa Thượng, cơm hến chiều
nay cay đắng trộn vào nhau
nghe ngậm ngùi câu hò mái
đẩy, xuôi ngược Hương Giang qua
cầu Trường Tiền, đêm lấp lánh
đèn xanh đèn đỏ, tôi tìm
“O” áo trắng đã mấy mùa
Sàigòn phố cà phê bụi
bặm, cao ốc xây dở dang
như chuyện tình, cô gái mặc
mini jupe làm nghề hớt
tóc ráy tai, khoe đùi trắng
và đôi mắt nhiều đêm mất
ngủ, xe taxi máy lạnh
và quán bia hơi, Sàigòn
ôi đã mấy mùa chinh chiến
“Huế, Sàigòn, Hà Nội hai
mươi năm xa vẫn còn xa…”
Phạm An Nhiên
SG 08082004
_________
(*)tcs
Ví dụ một bài thơ tân hình thức thứ hai
trong cách suy luận:
Cái khôn thừa
Mặt đất có lắm người khôn tôi gặp
thuở con nít thời trai trẻ, gặp nhiều
hơn khi lớn, họ khôn nhiều rất nhiều.
Cái khôn như không thể đếm nhưng vẫn
có thể như bọn trẻ đếm viên bi,
nhiều muốn tràn khỏi túi đã ních chật
phồng căng tiền, người tình, chiếc xe hơi,
bài thơ, sự nghiệp rách. Khôn giành hết
về phần mình để làm gì không hiểu.
Tôi thấy họ giấu kĩ, đôi lúc cũng
xòe ra sẵn sàng đối phó hay ra
tay với ai không biết. Thỉnh thoảng tôi
cũng thèm khôn như họ, khôn để viết
lách hay bon chen nhưng khi ngồi trước
giấy trắng tôi quên khôn. Ồ khôn nhiều
mà làm gì, ôi cuộc đời để làm
gì chứ họ?
Inrasara
Lối Tân Hình thức vẫn có
cái riêng của từng câu chữ, nếu ta có thể chịu khó suy ngẫm từ trong một câu
đến một đoạn thơ bốn câu là sự móc xích và luôn có ý nghĩa trong một cái tứ của
nó. Ví dụ đoạn cuối bài Cái Khôn Thừa
của Inrasara: “cũng thèm khôn như họ, khôn để viết/ lách hay bon chen nhưng
khi ngồi trước/ giấy trắng tôi quên khôn. Ồ khôn nhiều/ mà làm gì, ôi cuộc đời
để làm/ gì chứ họ?” Và dĩ nhiên, nếu trong cách làm thơ Đường khó về niêm
luật gò bó số lượng câu chữ, thì thơ Tân Hình thức mở rộng câu chữ lại yêu cầu
cao hơn đâu chỉ về cấu trúc mà còn về sự liên kết ý nghĩa nội dung trọn vẹn của
mỗi câu. Và nếu như xin được mạn phép cách giả định dùng số từ “những” trong
câu lách hay bon chen những “khi
ngồi trước” vừa xác định ý nhấn mạnh thói quen lặp lại của chủ thể, rồi
khẳng định ngỡ như thể mụ mẫm bởi cái khôn thừa trước giấy trắng tôi quên khôn.
Ồ khôn nhiều … Còn dùng từ “nhưng”
của chính tác giả lách hay bon chen “nhưng
khi ngồi trước” vẫn là dụng ý trong sự đối lập mạnh mẽ cái khôn thừa anh đã
có, đã biết giữa vật chất cuốn hút đối lập với tâm hồn mãi miết của người cầm
bút tạo nên những áng thơ văn cho hôm nay và thế hệ mai sau mà không hề vụ lợi
cho riêng mình. Điều đó khẳng định lối Tân Hình thức luôn vô cùng độc đáo động
não những ai say sưa gồng mình kiếm tìm con chữ thể hiện tứ thơ mà người sáng
tác lựa chọn khác nào khi Kim Trọng cảm nhận tiếng đàn Thúy Kiều đã được Nguyễn
Du miêu tả “Trong như tiếng hạc bay
qua/ Đục như tiếng suối mới sa giữa vời,…”
Chỉ
ngại có điều ngoài “cái thanh cao” đi vào Tân Hình thức có lẽ không ai chối bỏ,
còn ở một số bài“cái dung tục” lập đi lập lại nhiều lần quá thô thiển đã đành,
còn trần trụi đến mức dị ứng, hay cách nói phản cảm ở một số bài thơ có thể
chấp nhận được không?!... Tiếp nhận cấu trúc Tân Hình thức là điều nên làm để
sáng tạo thơ ca cho hôm nay, nhưng ta không hề bảo thủ cái mới, không thể lái
xe con đời mới chạy nhanh trên con đường đất lún sau cơn mưa được. Xây được cái
nền đường vững chắc cũng chưa cho phép xe con kia chạy nhanh, mà phải thực hiện
theo yêu cầu tốc độ quy định. Tân Hình thức thơ là hơi thở của thời đại công
nghiệp, dễ bị choáng bị sốc với những người yếu thần kinh chỉ cần nhìn đoàn tàu
lửa chạy trên đường sắt đã say sóng và nôn ngay (nguyên nhân của sự phản cảm là
văn hóa Việt khó chấp nhận, nói như vậy không hề bảo thủ. Bởi ngôn ngữ thơ nói
chung luôn khác với ngôn ngữ thường ngày, nó mang tính thẩm mĩ để nâng cao đời
sống tâm hồn con người). Dẫu biết tác phẩm văn học đến với người đọc, người
nghe đâu thể cùng lứa tuổi hay cùng trình độ nhận thức như nhau. Cấu trúc Thơ
Mới gần trăm năm nay vẫn duy trì gìn giữ, thế thì cấu trúc Tân Hình thức đã có
hơn ba mươi năm trên thế giới sao mà khó dung nạp, âu chỉ là thói quen!...
Có lẽ, Tân Hình thức thơ ca chưa mấy thích nghi với người tiếp nhận, thì cách viết Hậu Hiện đại mở ra lối mới hơn là siêu hư cấu, một cấu trúc quá tự do như một trò chơi ngôn ngữ tung vẫy ngôn ngữ trên một bình diện rộng theo những lối thực hành mới riêng biệt theo phong cách cá nhân tự do lựa chọn, đôi khi lắp ráp câu từ, tranh ảnh tạo những phát ngôn mới riêng biệt để diễn đạt như thể thơ độc vận, thơ đa thanh, thơ phụ âm, thơ danh từ, thơ mẫu tự, thơ kí tự, thơ thị giác, thơ nhiếp ảnh, thơ hỗn hợp,…
Chẳng hạn một trò chơi chữ mới tách cụm từ trong câu thơ:
Trăm năm trong cõi/ người ta.
Trăm năm trong cõi (là chủ đề rồi mở rộng chủ đề theo mẫu tự A,B, C,…)
Ải. Ấp. Bãi biển. Bãi tha ma. Bè. Bến. Bến đò. Bến phà. Bến tâu. Bến xe. Bệnh viện. Biệt phòng. Biệt phủ. Biệt thự,… Cầu tiêu. Chánh điện. Chợ. Chợ chồm hổm. Chợ phiên,…
Người ta: Á hậu. Bí thư. Bí thư chi bộ,.. Bộ trưởng. Binh nhì. Ca sĩ. Cảnh sát. Chị gánh nước,… Công an. Cụ già,… Dân. Dân biểu. Dân đen,… (Lối thơ danh từ của Nguyễn Tôn Hiệt, Nha Trang, sống ở
Cấu trúc thơ hậu hiện đại là sử dụng liệt kê tự nhiên đảo trật tự từ trong câu: “Em mặc áo xanh/ Áo xanh em mặc/ …”của Tam Lê- Trần Nguyên Anh (có nét tương đồng đoạn thoại giữa hai nhân vật ông Giuốc-đanh muốn nhờ thầy triết viết dùm lá thư tình trong hài kịch Trưởng giả học làm sang của Môlie đã sử dụng từ thế kỉ XVII), thơ thị giác, thơ nhiếp ảnh, thơ hỗn hợp,… người đọc có thể chấp nhận, hoặc không thể chấp nhận, là tùy vào thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người. Người sáng tác theo lối hậu hiện đại vận dụng mọi từ ngữ chất liệu trong thế giới đời sống, kể cả miếng giẻ rách bỏ, một cái bao cao su thải ra,… họ cũng đều sử dụng, một quan niệm thể hiện sao cho thích nghi với thế giới của "hiện thực thậm phồn" đương đại, không phủ định cái cũ để hô hào cái mới. Bởi vì theo họ, mọi đề tài trong văn học hiện đại đã dùng rồi, nên họ tránh lặp lại lối truyền thống. Đó là kế thừa kết quả của John Barth từng tuyên bố rằng văn chương đã đến hồi cạn kiệt từ những năm 1967, mãi đến 1980, ông quan sát nền văn chương hậu hiện đại và tuyên bố rằng đó là "nền văn chương của sự phong dật". Nên cuối cùng dễ dàng sa vào hố hủy diệt. Và chính vì vậy mà Alan Kirby- Tiến sĩ văn học Anh có bài viết về Cái chết của Chủ nghĩa hậu hiện đại và xa hơn*
Như vậy dù là Tân Hình thức có phải là nét mới hay kế thừa từ cách ngắt
dòng của thơ ca Việt (như thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ,…) hay như theo lời
nhận xét của bà Angela Saunders một nhà bình luận thơ Mỹ đã từng cảm nhận về
thơ Tân Hình Thức Việt, khi viết lời giới thiệu cho tuyển tập “Thơ Kể”:
Nhịp điệu và âm thanh của một bài thơ cung cấp phương tiện truyền đạt và
phương thức ghi nhớ thi ca. Những âm thanh trôi chảy trong một ngôn ngữ bản địa
đều có nét đặc thù về mặt ngôn ngữ và không dễ dàng để dịch sang một ngôn ngữ
khác...” Điều đó cũng khẳng định cấu trúc Tân Hình thức ra đời dễ dàng cho
việc chuyển hệ song ngữ được. Còn Hậu Hiện đại phải chăng từ vỏ ngôn ngữ đa
thanh, đa nghĩa xáo trộn nên cần nhìn lại trong quá trình sáng tác hay còn đang
trên con đường thử nghiệm, vận dụng cho có hiệu quả cho mối quan hệ giữa người
với người trong xã hội. Chính vì vậy nhà thơ không thể tách rời đối tượng của
mình, thơ vẫn nằm trong nội hàm của văn hóa tinh thần, nên dù theo một cấu trúc
hình thức nào phù hợp việc lựa chọn tứ thơ làm nên nghệ thuật chân chính đều
được con người thưởng thức, trân trọng. Thơ là vẻ đẹp thuần túy đại diện cho
tiếng nói lương tri cao quý như yêu, ghét rõ ràng ở từng cung bậc trầm bỗng
khác nhau.
Tuy Phước, 27.9.2013
_____
* Nhà văn và Tác phẩm, tr.161, số 1- 2013