MỘT BẾN SÔNG
THIÊNG
MỘT BẾN SÔNG THIÊNG
Khi nghĩ về thơ, thật sự tôi tâm đắc ý
tưởng: “…Dẫu là một tia nắng, thì tia nắng
ấy cũng phải vượt cả bát ngát quãng không mà đến/… / Những nhà thơ ba ngày thôi
cũng làm ra thơ của nghìn ngày/ Miễn anh đem cái vơi, cái hữu hạn của thời anh
múc vào dãi sông đầy/ Ở sự sống của nhân dân vô lượng bể/ Nhân dân- Người mẹ đẻ
của muôn đời thi sĩ”(Có một nghề thơ- Chế Lan Viên). Và người Bình Định đã
“đem cái vơi, cái hữu hạn của thời anh
múc vào dãi sông đầy” ấy hòa cùng làng thơ Việt Nam hiện đại khơi nguồn từ
những năm ba mươi chính là Nhà thơ Yến Lan.
Yến Lan tên thật là Lâm Thanh Lang,
sinh năm 1916 tại quê nhà An Nhơn. Sáng tác thơ khi còn rất trẻ, kể từ những
năm 1932 cho đến cuối đời 1998. Đáng kể nhất là thơ tứ tuyệt, có thể minh chứng
lời Trúc Thông đã nhận xét: “Trong số lưa thưa bậc hảo hán của thơ tứ tuyệt
Việt Nam hiện đại, Yến Lan thuộc loại “bố già”. Một “bố già” hiền lành. Không
cân quắc, ngang tàng, vang động. Nhưng vẫn đầy cốt cách trong cung cách âm thầm...”,
chững chạc từ một nhà giáo giàu độ bền sâu lắng:
“Em
đến xin hồng hồng chửa nụ
Hôm nay hồng nở bóng em xa
Cầm em bữa trước em không ở
Giờ biết làm sao cầm được hoa”.
(Cầm chân em, cầm chân hoa)
Hôm nay hồng nở bóng em xa
Cầm em bữa trước em không ở
Giờ biết làm sao cầm được hoa”.
(Cầm chân em, cầm chân hoa)
Một tiếng lòng bộc bạch thanh cao mà trăn trở:
“Nhà không vườn, không gác, không sân
Tôi nợ đời rau trái tôi ăn
Nợ hàng xóm trưa hè bóng mát
Nợ em cài bên cửa một vầng trăng”.
(Nợ)
Vậy là món “nợ” thi
nhân đâu chỉ ở hàng mấy trăm bài tứ tuyệt có thể kể như: Xuân muộn, Chị đi,
Rượu mơ uống ở chùa Hương, Nhà xưa, Chèo, Lữ thứ, Nhường, Vô tình mà hữu hình
(Gửi tặng Quách Tấn), Mừng bạn có nhà (Gửi Chế Lan Viên), Mùa chim di cư (Tặng
Phùng Quán), Họa mi trong lồng (Tặng Quang Dũng), Đi qua nhà 24 Cột Cờ (Nhớ
Xuân Diệu),…
Chọn thơ tứ tuyệt tuy
lời ngắn “giải mã” tình dài vời vợi với người thân ruột rà, với bạn bè tri âm,
tri kỉ vẫn chưa đong đầy lượng bể. Cái bể nghĩa tình sâu lắng nhất vẫn là Nhân
dân. Bởi “Nhân dân- Người mẹ đẻ của muôn đời
thi sĩ
” để gắn bó, yêu thương quê hương Bình Định gần gũi nhất. Chẳng có gì lạ khi người
đọc bắt gặp những bài thơ dài trên hai mươi câu được viết trong giai đoạn 1935-
1975. Còn cái thời Yến Lan cùng Quách Tấn, Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên làm nên một
“Bàn thành tứ hữu” cho “Rượu ân tình-
Bình Định xứ lên men”, mà trước đó nơi đây đã từng là: “Tăm chiêu mộ nổi trên dòng nước Đạo” hội
tụ những bậc anh tài áo vải cờ đào của đất võ và giờ đây mở lối khơi nguồn cho
thi ca rạo rực khao khát:
“Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt.
Đàng chờ xe sông nước ước mong thuyền.
Tịch dương liễu không biết mình đang biếc
Tương tư trời tương tư nhạc triền miên.”
(Bình Định 1935)
Có thể nói cách ngắt nhịp trong hai câu (không
theo ý chủ quan của người viết bài này mà trước đây, tôi thường gặp cô Nguyễn
Thị Lan- vợ thi sĩ Yến Lan, sinh thời thường về quê nội ở Phước Lộc thắp hương,
cô họ tôi thích sẻ chia: đời làm thơ khởi đầu của dượng con là bài Bến My Lăng,
nhưng tiếng nói tâm tình của nhà thơ mới là bài Bình Định 1935 và một số bài
thơ viết về quê hương mình, ông tâm đắc nhất mỗi khi đọc đoạn thơ trên) là sự
ẩn mình “Tịch dương, liễu không biết mình đang
biếc/ Tương tư trời tương tư, nhạc triền miên ”đã khơi được ngọn lửa trái tim dẫu là nương, là cậy tự nhiên: mây, nguyệt ; là chờ, là ước phương tiện: xe, thuyền của người đến hay dù có tịch dương đi chăng nữa, thì thân liễu
này cứ miệt mài Tương tư trời tương tư cho biếc khúc nhạc triền miên xanh. Phải chăng cốt cách nghệ sĩ phóng
khoáng từ buổi ban đầu tìm ra được giá trị chân thực để định vị mà nung nấu
tình yêu xứ sở: “Ôi Bình Định sao nằm
trong mãi mãi/ Đĩa dầu vơi, tim cháy ngọn âm âm” (Bình Định 1935) thổi bùng
khí thế sục sôi một sức mạnh của giai cấp vô sản quyết giành chính quyền:
“Bùn
rắn lại trên bàn tay cày cuốc
Trán công nhân rực thét
lửa chân đe
Nét khẩu hiệu, tay huơ
bừng ngọn đuốc
Tay vót căm thù bén những
thanh tre”
(Bình Định
1945)
Mỗi bàn tay người Bình Định không chịu
làm nô lệ nơi thành Đồ Bàn ngày ấy “huơ
bùng ngọn đuốc” hòa chung chiến thắng vang dội kịp thời từ trên mọi miền
đất nước: “Tin xa lạ những Ba Tơ, Việt
Bắc/ Người kề nhau như kể chuyện truyền kỳ/ Đất ê ẩm dưới đinh giầy Pháp Nhật/
Vội trở mình ôm chặt gót thu đi” đã thắp sáng thêm niềm tin mãnh liệt cho
người sáng tác. Bên cạnh sông Côn Bình Định cũng bao tháng ngày vượt qua ghềnh thác
về cùng hợp lưu: “Sông Côn chảy qua bảy
tầng thác đập/ Tình Trung châu: Hương mật nặng khoang thuyền/ Duyên cá nục,
măng le về hội họp/ Phiên chợ Thành vụt tỉnh giấc cô miên”. Và lúc này,
niềm vui đong đầy niềm vui “Hai chúng ta
bước qua đêm quá khứ/ Ngoảnh đôi đầu không còn thấy bơ vơ”nữa, hạnh phúc
dâng trào:
“Nét
mực đỏ gạch dưới hàng nhật ký:
Đây mùa thơ của dân chủ
cộng hòa”
(Bình Định 1945).
Mùa
thơ của dân chủ cộng hòa là dấu ấn khó quên trong tâm tưởng thi sĩ Yến Lan
hoàn toàn đối lập với thoát li thực tại, đoạn không thể không nhắc đến Bến My Lăng đã làm biết bao nhiêu người
cầm bút luận bình. Và hiểu theo cách nào chăng nữa, thì Bến My Lăng toàn bích về một không gian nghệ thuật ngôn từ: trăng rơi vàng trên mặt sách, có con
thuyền cùng ông lái buồn để gió lén mơn
râu mơ màng thả hồn theo mây gió, điểm thêm chàng kị mã với màu áo ngọc lưu li: “Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả/ Sợ
trăng vàng rơi khuất lối chưa đi/…/ còn “Tiếng gọi đò,
gọi đò như oán trách/ Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng”. Ông tạc bức
tranh đầy thi vị cho dấu lặng buồn, lẽ ra phải có lời hô ứng!... Từ việc khai
thác giữa thực và mộng, giữa động và tĩnh đan xen trong hoàn cảnh bến trăng
lung linh mà huyền ảo quá, bến sông năm nào nơi người mẹ chợ xa tảo tần lỡ
chuyến đò ngang, sinh ra thi sĩ “Tôi lọt
lòng ra giữa bến trăng”chăng! Hay bến sông của một cậu bé Lâm Thanh Lang từ
lúc lên sáu hớt hãi cùng cha gọi đò khi mẹ mất!... Hay còn là bến sông của bao
lượt đi về, là sự mong mỏi đợi chờ một tiếng nói chung, một sự đồng lòng từ xóm
làng quê hương mình. Và tôi cho đây là một bến sông thiêng bởi chứa cả hồn thơ
Yến Lan dành trọn vẹn về một nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ông trưởng thành mà
không thể nào quên về hình ảnh người thầy đầu tiên: “Tôi biết thầy lo chuyện nước non/ Lòng phơi như ánh mặt trăng tròn/ Mỗi
khi nhắc đến người bôn tẩu/ Tâm sự trào lên ngọn bút son/…”(Thầy tôi). Và người
học trò, cây bút trẻ ấy đã chọn “sự sống của nhân dân vô lượng bể” để cứu cánh đâu chỉ riêng mình
mà còn cho cả dân tộc và đất nước. Vậy thì Yến Lan, từ sự chuyển tiếp Bình Định 1935, đến Bình Định 1945, và Bình Định
1947 đã mở ra một chặng đường thi ca khởi sắc: “Đường cách mạng thơm từng trang lịch sử/ Trong nhớ thương sông núi bớt
mơ hồ”, nên Bình Định những ngày này đã bền bỉ, thắt lưng buột bụng: “co lại từng
vắt cơm, nắm muối” gian khổ cho cuộc kháng
chiến lâu dài:
“Tin hỏa tốc bạt thếp đèn của quán
Lửa mài gươm sáng
rực xóm Lò Rèn,
Mẹ binh sĩ lòng khâu
theo túi đạn
Phòng tuyển binh
người áo vải chân chen”
Còn những người con trai, con gái Bình
Định phải chăng là “chàng kị mã với màu
áo ngọc lưu li” ngày xưa ám ảnh triền miên, bí ẩn giờ đã tự giác vượt sông trở thành chiến sĩ quả cảm để có mặt cùng với
nhân dân trên từng chặng đường, những địa danh quen thuộc:
“Trai Bình Định ôm bom vào Tú Thuỷ,
Ngự đèo Nhong hay canh bãi Vân Sơn.
Gái quạt trấu cũng hoá thành dũng sĩ,
Cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng”.
Gái quạt trấu cũng hoá thành dũng sĩ,
Cầu Bà Di đẩy dựng những toa goòng”.
Với thái độ tích cực của một thi nhân biết tách
mình ra khỏi mộng mị mơ hồ, Yến Lan đã đi tìm về thực tại từ bến sông ắp đầy kỉ
niệm “Mưa đưa thương nhớ về làng/ Mưa làm xa những dặm đàng,
bến sông”(Đi trong nắng mới) cho tới những ngày xa quê nhà, vẫn trọn vẹn thân
thương thuở nào: “Tên mảnh đất non cao
che lũng thấp/ Ôm nương rẫy nắng vàng theo màu sáp/ Vị hồ tiêu trát ấm cả trung
châu/ Tỏa hơi say rời bến những thuyền trầu”(An Lão), ngỡ bình yên với tên
gọi An Lão, nhưng khi giặc càn áp giải
cùng băng đạn tuần khuya thì cả làng không
hề chùng bước, bền gan chiến đấu đến cùng: “Đất An Lão đâu nằm im chịu giặc/ Rẫy dứa hầm chông, ngọn cau liên lạc/ Anh cầm cày, chị bắt ốc ven sông/ Đặt bẫy, gài mìn chờ cuộc phản công”(An Lão).
Rồi bù lại sau bao đêm trường khắc
khoải âu lo, mong đợi, lời thơ như thủ thỉ ngân vang khúc khải hoàn: “Thôi không còn sốt ruột nữa em/ Cái ta chờ,
cái ta đợi ngày đêm/ Tất đã đến và hôm nay đã đến/ Cờ Giải phóng rợp dày trên
cửa biển/ Thành phố những dân ca đầy
sự tích anh hùng”(Hôm nay đã đến, Bình Định ơi!), những xôn xao tiếp nối xôn
xao dâng trào sau bao năm xa cách, vỡ òa hạnh phúc cho mỗi người con đi xa nay
trở về cùng gia đình sum họp, đất nước liền một dải :
“ Xanh sắc lại, mênh mông trời rộng mở
Hồn ta nay ước
choáng cả không gian
Ơi Bình Định, từ
con tim ấp lửa.
Bừng lên – bừng
thành một cuộc hoa đăng”
(Bình
Định 1975-1976)
Vậy
là Bình Định từ lúc “Đĩa dầu vơi, tim cháy ngọn âm âm” đến khi “con
tim ấp lửa” đã “Bừng lên- bừng thành
một cuộc hoa đăng” như chính cuộc đời và sự tồn tại về cái Bến My Lăng của ông. Hơn mười lăm năm
qua, kể từ rằm tháng tám năm Mậu Dần (1998), từ tâm nguyện “Hồn ta nay ước
choáng cả không gian”, không chỉ là “Những
nhà thơ ba ngày” mà
cả giai đoạn! Điều đó đủ khẳng định những bài ấy mang tính thời sự, nhưng rất vĩnh cửu, nên Yến Lan “cũng làm ra thơ của nghìn ngày” rồi! Bởi thơ ông đâu chỉ kịp thời phản ánh cuộc
kháng chiến trường kì chống ngoại xâm của nhân dân Bình Định nói riêng, mà trước
đó còn cổ vũ phong trào đấu tranh giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Tôi tin
chắc rằng, Yến Lan- “Dẫu là một tia nắng , thì tia nắng ấy
cũng phải vượt cả bát ngát quãng không mà đến” với chúng ta rồi. Cái tia nắng ấy như là sự kế thừa, nhắc nhở,
nâng niu gìn giữ. Nếu chỉ chú trọng Yến Lan với thơ tứ tuyệt, là kịch thơ, là
truyện ngắn,… thì ta quý tấm lòng thi sĩ tài hoa. Còn những bài thơ viết về
Bình Định, giả sử có thể gom lại thành một trường ca, ta càng trân trọng bản
lĩnh Nhà thơ đúng nghĩa được viết hoa!
Phước Lộc, 01. 3. 2016
Nguyễn Thị Phụng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét