TRĂNG RẰM GIỮA MIỀN QUÊ*
Trăng ở miền quê tôi đẹp lắm, cái đẹp
tự nhiên của đất trời ban tặng con người. Và con người có quyền chiêm ngưỡng
thưởng thức. Có ngắm kĩ mới thấy nó tròn trịa phúc hậu, nó tinh khiết và bình
yên đáng yêu làm sao. Giả như có đêm rằm nào đó, những áng mây đen khó tính
ganh tị che khuất tầm mắt người, thì hôm sau hoặc hôm sau nữa, hay tháng sau
tháng sau nữa,… trăng vẫn sáng một màu, cái màu vàng ròng bất tận vô giá chảy
xuống trần gian khó mà kim cương hột xoàn nào đánh đổi được. Nói đến cái đẹp
của trăng không chỉ có rằm tháng giêng đến với ngày hội thơ tình người của đất
nước. Cũng không phải là đêm rằm tháng tư của Phật lịch ngàn năm đón chào đấng
Thích Ca Mâu Ni ra đời, cứu nhân độ thế, hay chay trai cầu nguyện lòng thành
tích đức cho con cháu mai sau. Cũng không phải là rằm tháng bảy lễ xá tội vong
nhân, Vu Lan báo hiếu cha mẹ trọn đạo làm con, ơn nghĩa sinh thành. Cũng không
phải là rằm tháng tám dành riêng cho tuổi thơ tung tăng rước đèn kéo quân, phá
cỗ vui chơi thỏa thích. Nhưng với tôi, giờ đây mới nhận ra được giữa mùa xuân
trăng đẹp đến lạ thường!...
Đó
là trăng rằm ở miền quê tôi.
Khi chiều tím lắng đọng phía chân núi mờ
xa thì đằng đông trăng đã hiện ra từ lúc nào nếu lấy thước đem đo phải ước hơn
cả hai cây sào dài tính từ mặt đất lên. Trăng lơ lửng giữa cái nền xanh thẳm
ngỡ như đang đứng trước biển nhìn ra màu trời nước bằng một giải phân cách đậm
nhạt như tranh vẽ. Ô, trăng sáng giữa bầu trời tháng hai!
Có lẽ lúc này, cả làng quê đều bận
rộn. Người thì lo cho bữa cơm gia đình, người thì lo tắm rửa giặt giũ áo quần
cho con cái, người thì lo gà vịt vào chuồng, che chắn cho bò heo khỏi lạnh, …
Còn tôi, vẫn thói quen thong thả đánh đều tay nhịp bước 30 phút trước khi mặt
trời lặn. Rồi chợt nhớ chiều nay quên đi chợ, thế là thẳng hướng ra khỏi cổng
làng đến nhà chị Thư mua vài trứng vịt về luộc dằm nước mắm chấm rau cải xanh
cũng ngon miệng lắm.Nhà chị Thư nằm cạnh quốc lộ 19, gần chợ nhỏ, cách Tháp
Bánh Ít chừng hai cây số. Phía trước hiên nhà , chị kê cái tủ bán hàng lặt vặt
nào bánh ngọt, mắm muối, thẻ nhang, cặp đèn cầy,… Tôi chờ chị thối tiền cho
người ta xong, mới nhắc chị mua thêm bì muối iod nữa. Cạnh cửa ra vào là một
cái xách nhựa trong đó đựng hoa tươi, chuối,…Tôi nhắc chị có ai đã để quên, chị
Thư nhìn tôi và bảo không đâu em, chút nữa chị chở ra mả cúng dì. Thế là chị
cho em đi với, từ hôm dì mất đến nay hơn nửa năm rồi, em thật có lỗi chưa biết
mộ dì chỗ nào! Tôi chưa kịp nói không có em ở nhà, sáng đó em đi Buôn Mê Thuột.
Chị nhớ có tên em hôm đó mà! Như chứng tỏ chị không bỏ sót danh sách người nào
đến phúng điếu má chị. Tôi ngạc nhiên: Trời đất ơi, chị nhớ chi cho kĩ vậy!
Theo em chuyện phúng viếng đem đồ lễ đến nhà có tang để thăm hỏi và tỏ lòng
thương tiếc đối với người đã khuất là việc làm tự nguyện, sẻ chia, ai mà đòi
hỏi chờ người trong gia đình mình mất rồi họ có đi lại không?!... Cũng như đám
hỉ thì đến chúc mừng, chia vui, chụp hình gặp gỡ thân tình lại được chén một
bụng no nê còn gì sướng bằng. Chị nói một mạch để phân trần: nghĩ như em thì ai
nói làm gì, chuyện điếu là việc tang và hỉ là việc mừng đều quan trọng cả. Chị
kể dì út Tám ghi ngoài phong bì đi điếu chị ba, cháu Thư nhận.Có người còn nhắn
hỏi nó có ghi tên tao đi điếu nữa không. Mà em xem hai nhà cách nhau chưa được
trăm mét, dì Tám không đến được thì còn con gái của dì phải không em?! Chị nghĩ
đến thắp cây nhang chia buồn với gia đình là chị cảm ơn nhiều… Nhưng chị không
bao giờ quên một ai.
Tôi hiểu và quý chị như dì ba.Lúc dượng
chưa kịp đi tập kết, cơn đau bụng quằn quại trong hai ngày rồi mất, chị Thư mới
vừa lên năm. Từ quê chồng Phù Mĩ, dì ba trở về Tuy Phước, chăm chút con gái, âm
thầm giúp đỡ bà con hàng xóm, nhất là gia đình người thân có chồng, con đi tập
kết. Dì gởi miếng cá, lọ tương, bó rau, cái bánh ít,… và phía sau là câu chuyện
liên lạc dượng sáu bị địch bắt ở Pleiku, chuyện trao trả tù binh, chuyện chị
Phương lên gặp dượng sáu, chuyện chuyền tay nhau tấm hình từ ngoài Bắc gởi vào
mà nén nước mắt. Chị Thư học ở dì tính thích cho, gởi biếu.Thường từ chối nhận
lại đến phát ghét khi tôi đem những quả xoài đầu mùa chín mọng tươm mật đến.
Tôi ra nhà sau lấy con dao gọt vỏ rửa sạch, cắt một miếng đưa lên miệng khen
ngọt lắm, cắt miếng thứ hai mời chị mới đưa tay cầm nếm thử rồi tấm tắc: chị
tưởng chua chứ!...Tính chị Thư là như thế. Dì ba mất, chị sống một mình với
đồng lương hưu tiện tặn cũng đủ cho sinh hoạt cá nhân ở vùng quê này. Gần sáu
năm nay chị thừa hưởng thêm hàng quán bé nhỏ tại nhà từ lúc dì ba còn khỏe
lắm!...
Chị tiếp, thường là mùng một, rằm chị
đều ra thăm dì, nhưng không đi sớm vì khi cúng xong, nhang chưa kịp tàn, mấy
đứa nhỏ chờ sẵn lấy hết chuối bánh, chị không thích điều đó. Em nghĩ coi, cúng
xong để tàn nhang chị cũng cho chúng nó ăn, chứ má chị có ăn được đâu, đã đem
ra mả cúng thì ai lấy về làm gì. Trên đường đi chị còn kể tiếp chuyện bà Thơm
mang hoa quả ra mộ cúng ông Thơm, quay về nhà lấy hộp quẹt, khi ra lại không
còn thứ gì đặt lên mộ để cúng nữa em ơi! Bà Thơm khấn vái xin ông thứ lỗi.
Chuyện cúng kính nghi lễ với nguời đã khuất đã có từ xưa nay, người sống đối
với người mất ngoài cái tình còn hiện vật mới biểu hiện sự quan tâm nữa hay
sao! Hương hoa chưa đủ nói hết lòng nhớ thương tử biệt này!...
Dọc con đường bê tông hơn cây số, trời
đêm càng lúc càng sáng hơn, trăng lạnh có phải là hơi sương giữa mùa xuân còn
chùng chình luyến tiếc chưa muốn rời xa con người, hay là cái cảm giác vắng vẻ
nơi nghĩa địa lúc này chỉ có hai chị em tôi. Đêm trăng hôm nay đâu chỉ là chiếc
đèn soi bóng chị dắt chiếc xe đạp chở cái giỏ xách phía sau, tôi lo lắng hỏi:
- Thế đêm ba mươi, mùng một chị cũng đi
một mình à!
- Thì… một mình có sao đâu em! Chị đem
theo cây đèn pin, nhưng cũng có lúc giật mình khi mấy đứa nhỏ núp sẵn trong mả,
thấy chị đến, nó chạy trốn chị đấy. Ai xa lạ đâu em, như anh em thằng Lươn,
thằng Lịch con bà Thổ trong xóm mình. Đâu phải hộ nghèo.Mà nói thế, nếu chúng
nó không lấy về ăn, chỉ để ruồi bu kiến đỗ, mình cũng phải dọn sạch đem đổ
ngoài bụi cây.Cười.
Nghĩa
địa làng tôi là một cái gò rộng nằm giữa đồng, thường gọi là gò Ông Trới, cạnh
con mương thủy lợi. Thường ban ngày, dù nắng hay mưa, mỗi khi tiễn một người
trong làng mất theo tiếng trống đưa ma, tiếng kèn đưa đám réo rắc lòng người,
âm thanh là một sự lặp lại không bao giờ thay đổi, không phân biệt giới tính,
tuổi tác, giàu nghèo, bước chân tôi cứ nặng nề trên con đường mòn dẫn vào phần
mộ đã đào sâu ba lớp đất… cho đến khi hạ huyệt xong, mỗi người vốc một nắm đất
đắp thêm cho phần mộ vun cao, rồi hồi trống kết thúc số phận một con người, thì
ai về nhà nấy, lòng trĩu nặng bâng khuâng.
Lần đầu tiên tôi đi thăm mả dì ba, cũng
là lần đầu tiên đến nghĩa địa vào ban đêm.Không phải là đêm ba mươi. Đêm rằm
tháng hai, trăng sáng vô cùng. Bốn bề im ắng, im ắng đến lạ lùng. Thường giữa
đồng không như thế này, ếch nhái rộn ràng trò chuyện, nhưng từ hôm tết tới giờ
trời chưa mưa. Cũng không có tiếng vạc kêu đêm, tiếng chim lạc bầy gọi nữa. Chỉ
có gió, gió thì thầm với tóc với áo rồi len lỏi vào sống lưng tôi, tôi rùng
mình nhìn dáng chị Thư mảnh khảnh nhỏ nhắn trong bộ đồ màu đen, dựng chiếc xe
đạp, lui cui chiếc xách bên tay rồi bước
đến phần mộ trước mặt bảo má chị nằm đây nè em. Chị vói tay lấy cây chổi phía
trên quét sạch trước cửa mộ, đặt cây đèn hột vịt bật lửa thắp sáng cạnh tấm chân dung của dì. Bên phải là lọ hoa
cúc, bên trái là đĩa chuối mốc to chín vàng cùng hai phong bánh bột huỳnh tinh
mà lúc sống dì ba rất thích ăn sau bữa cơm, uống ngụm nước trà cho thơm miệng. Chị
Thư thắp ba cây nhang rồi lâm râm khấn như thầm thì điều gì với mẹ.Tôi cũng
thắp nhang cho dì tự giới thiệu tên mình, cầu mong linh hồn dì sớm siêu thoát
nơi miền cực lạc, còn chốn dương trần thì chúng con cố gắng sao cho trọn bổn
phận làm người. Đôi mắt nghiêm nghị của dì từ lúc nào sao giờ lại nhòe đi, hay
khói hương làm cay mắt, hay dì xúc động có đứa cháu đến thăm dì giữa đêm rằm,
hay dì còn muốn nhắn nhủ điều gì nữa!.. Ngọn đèn dầu ấm áp soi rõ khuôn mặt của
ba người. Người nằm dưới mộ sâu kia một đời trọn vẹn thủy chung với chồng con,
với họ hàng làng xóm.
Và đến khi ánh vàng đêm trăng âm thầm
vô tư chảy mãi miết trên mái tóc hai chị em chúng tôi, gió lùa vào khoảng lặng,
chị mới đứng lên cắm nhang các mộ phần xung quanh cũng không đủ, hương theo gió
khép kín các mộ phần khu nghĩa địa. Những cái mả gió (còn gọi mả cô hồn) nằm
cạnh dì ba cũng được chị Thư cho người xây lại theo hình chóp nón chừa một lổ
nhỏ để cắm nhang, chị đặt lên đó một nhánh chuối nhỏ rồi lâm râm khấn: xin
người láng giềng để má tôi được nằm bên cho vui. Chị vừa cười vừa đưa tay chỉ
cho tôi xem phía trên phần mộ dì ba là một ô hình chữ nhật được xây một lớp đá
chẻ ngay ngắn là nơi mà những người làm mộ cho dì ba đã chọn dành cho chị sau
này, rồi chị nói không có nằm ở đó đâu. Tôi ngạc nhiên: A, thì ra chị sống suốt
đời?!... Chị đang nghĩ (mà nói riêng với em thôi) là sẽ hiến xác, nhưng chưa
biết cách nào đây! Tôi phì cười, đến lúc đó, chắc gì nội tạng chị đảm bảo đủ
100% không đấy! Chị dứt khoát với tôi là đủ 100% tốt lắm, chị không đau bệnh
gì, kể cả… chị ngập ngừng không nói tiếp. Tôi đùa kể cả còn…con gái chứ gì! Ha…
- Mà sao chị ở một mình?
-
Ở với má chứ sao một mình, em khéo hỏi.
Được
thể tôi mạnh dạn hơn, đây là điều chưa ai dám mở miệng về chị:
- Không, em muốn biết tình yêu của chị
kìa!
- Chị mang trầu cau đi hỏi mà người ta
không chịu, không ưng, nên chị ở vậy. Rồi chị đánh lảng, em lung tung quá.
- Em mà nghe chị nói sớm cái quy định
chế độ mẫu hệ áp dụng và duy trì cho người kinh lại hay đó nghen. Bọn đàn ông
chỉ có nước ế vợ như chơi, lúc đó “ mua
về mà bỏ trong lồng cho kiến nó tha”.
Cả hai chị em thoải mái thư giãn giữa
nghĩa địa chỉ có trăng mênh mông, trăng nhìn xuống, trăng im lìm, trăng ngờ
vực, trăng ngậm ngùi,…
Điện thoại reo: em đang ở đâu? Ra ngoài
xem trăng đêm nay đẹp lắm, tròn lắm, to lắm. Thời sự VTV1 mới đưa tin đây! Đâu
phải bây giờ tôi mới ngắm trăng, tôi đã ngắm từ lúc chiều, trên đường ra nghĩa
địa, trong nghĩa địa và đang về nhà đây.Quả thật trăng đẹp.Tôi có thể khẳng
định chỉ có miền quê trăng mới đẹp, màu vàng lung linh vô tận, công bằng sẻ
chia cho tất cả không phân biệt với một ai, cái đáng trân trọng của tự nhiên là
như thế.Ngọn đèn đường lúc này tự thấy mình có thừa ra không? Tôi không dám đề
cập đến việc tiết kiệm điện, với tôi, chỉ có ngọn đèn thiên nhiên mới là trong
lành,vĩnh cửu.
Đêm nay, ngồi trên ghế đá trước nhà, thức
cùng trăng đi ngang qua đỉnh đầu.Tôi chẳng vướng bận lo âu một điều gì, con cái
cũng đã lớn, ngoài đồng lương hưu hàng tháng nhận về tiêu hết là xong. Tôi cũng
chưa nghĩ như chị Thư lo đến cái chết cho mình, mà quý chị ở cái tình đi mua
từng lạng đinh về đóng từng cái đòn nhỏ cho hết người này đến người kia, bỏ vào
bao đem tặng nhà chùa để khi ngày giỗ các bổn đạo vào bếp ngồi nấu nướng cho đỡ
mỏi chân. Chị phân loại tặng mấy cái đòn nhỏ cho các cháu ngồi mua bán đồ hàng
với nhau, dành những cái đòn lớn xếp chồng lên ngay ngắn để ngay trước hiên nhà
mình cho anh chị em công nhân sáng sớm ngồi chờ xe đưa đón, còn bảo tôi lúc nào
đi Sài Gòn lên ngồi đây chờ xe cho đỡ mỏi chân nghen! Những cái đòn làm ra từ
việc tận dụng những miếng gỗ vụn, gỗ tạp chị mua về nấu nước mà làm nên sự quan
tâm thật đơn giản trong cuộc sống đời thường. Nhưng tôi làm sao quên được vào
những buối chiều cái dáng chị đang ngồi đóng đòn, mắt cứ nhìn chừng sang bên
kia đường, rồi vui vẻ đứng lên bảo chờ chút theo sau tiếng gọi: Bà hai ơi, dắt
cháu qua đường! Đó là tiếng của mấy cháu nhỏ trong xóm đi học về, mà cha mẹ
chúng còn bận đi làm chưa đón kịp.
Nếu như hồi đó…chị cũng có những đứa
cháu như lũ trẻ bây giờ gọi bằng bà nội, bà ngoại kia! Nhớ trên đường đi về,
hai chị em chậm bước, chị kể hồi đó anh ấy yêu tha thiết lắm chứ! Mà sao thời
con gái, lúc ấy chị ba mươi rồi, chị cũng chờ và khao khát cho anh, thế nhưng
đến với nhau, anh lại dè dặt, còn bảo chị hãy cố giữ gìn. Mà chị thì…chị thèm
chút hơi hướng đàn ông sao anh không cho, không đáp lại.Hay là chị nghèo, gia
đình anh cũng thuộc diện cơ bản mà. Rồi tên anh có trong danh sách đợt đầu tiên của xã đi kinh tế mới Cát Tiên Lâm
Đồng, anh nói đi vài năm hoặc cũng có thể lập nghiệp nơi ấy, chưa hẹn ngày về. Chia
tayanh trong nước mắt từ lúc ấy và anh khuyên chị lấy chồng. Lúc đó má chị nói
hay là… giờ má còn khỏe, con có ý định đicùng với nó lên đó mà lập nghiệp làm
ănlà tùy ở con quyết định. Còn chị thì đang đi làm, sao bỏ việc nhà nước, nên
cứ buồn buồn làm sao, muốntheo anh lại thương mẹ cả một thời thanh xuân góa
bụa, giờ thì tuổi tác già nua, sao chị nỡ đành…
Hình như, nghe nói là ba năm sau anh
lập gia đình. Nghĩa là sau trận ốm sốt rét li bì trời đất, được cô điều dưỡng ở
bệnh viện còn chăm thêm anh miếng cháo, miếng canh, cho tình anh gần gũi thân
thương tự nhiên nảy nở, như hoa gặp nắng cho sắc đậm màu, cho hương ấp ủ. Vậy
là Tâm, vợ anh là bạn cùng lớp với bọn chị. Tự nhiên chị thấy tưng tức như con
người ghét những áng mây đen che khuất ánh trăng rằm. Bất chợt, chị nhìn lên
bầu trời trong xanh quá, không một gợn mây, màu trăng ngọt ngào thanh tao tỏa
sáng. Chị trầm tư... Rồi kể tiếp, cũng mừng anh khỏe mới lấy được vợ, có một
đứa con gái, tiếc là cháu bé lớn lên năm tuổi mà cứ quặt quẹo chân tay, không
phải là sốt bại não, mà qua kết quả xét nghiệm của Bệnh viện Nhi đồng thành phố
là cháu bị ảnh hưởng chất dioxin từ những năm bảy mươi anh đi bộ đội!...
Trăng tĩnh lặng.
Tôi lại tiếc, sao lúc nãy chị Thư nài
tôi ở lại dùng cơm chay với chị, có thể còn được nghe chị kể thêm về thời xưa
nữa kia, nhưng tôi dị ứng món xì dầu, xin phép ra về. Ngày mai đi sớm xuống chợ
cảng Quy Nhơn mua cá cơm mùa này về làm nước mắm để dành ăn trong những tháng
mưa và gởi vào thành phố cho các con cùng dùng nữa chứ!
Trăng giữa vòm trời xanh đã chênh chếch
bóng phía sau nhà.
Rằm tháng hai, 2011
*Trích tập truyện ngắn NƠI TÌNH YÊU GIỮ LẠI (NXB HNV- 2018)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét