Thứ Năm, 28 tháng 12, 2017

CHÚT LỬA ẤM TÌNH NGƯỜI (Đọc Nhật ký Nữ nhà báo chiến trường của Lệ Thu

CHÚT LỬA ẤM TÌNH NGƯỜI
(Đọc Nhật ký Nữ nhà báo chiến trường của Lệ Thu, NXB QĐND- 2015)
(Sau một trận bom vùi ở Phù Cát 1974 - 
"trang điểm" bằng bùn đất thay cho son phấn!)Fb Lệ Thu

         Thật khó nén lòng đã kịp nhận ra vẻ đẹp “Suốt thời thơ ấu không được gần mẹ đến khi làm mẹ không được gần con” (15.1.1974) và nỗi niềm ấy đâu thể cất giữ riêng mình sau bốn mươi năm đó là tập Nhật ký Nữ nhà báo chiến trường của Lệ Thu (NXB QĐND- 2015) được đến với bạn đọc.
        Thể như hồn đất nước gọi về hãy trả lại vẹn nguyên những cảm xúc chân tình nhất của những người từng trộn lẫn mồ hôi và máu lửa trên trận tuyến đầy cam go ác liệt, quyết tử để Tổ quốc quyết sinh: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ từ sự trở về sau ba mươi lăm năm lưu lạc của một Nhật ký Đặng Thùy Trâm, cô gái Hà Nội, đã có mặt tại chiến trường Quảng Ngãi những năm sáu mươi của thế kỉ XX, và giờ đây tập Nhật ký Nữ nhà báo chiến trường của Lệ Thu ra đời phải chăng họ là những người có cái tâm trong sáng, thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đến lúc phải trả lại sự thật cho con cháu người Việt Nam hiểu rõ thực chất cũng như củng cố lại niềm tin vào sức mạnh ý chí, nghị lực phi thường trong cuộc đấu tranh giành chính nghĩa, giữ vững độc lập tự do cho hôm nay và mai sau bằng ngòi bút của mình. Một mảnh đất tốt hơn khi những hạt chân lí gieo vào đúng thời điểm cả dân tộc chào mừng bốn mươi năm Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ắt sẽ mọc mầm xanh tươi nhanh chóng, tỏa bóng mát diệu kì của từng trang Nhật ký Nữ nhà báo chiến trường của Lệ Thu, thoắt như bộ phim tài liệu mà diễn viên chính là người mẹ tuổi ngoài ba mươi, nhận nhiệm vụ “nhà báo chiến trường” ở Khu 5 trong niềm vui vì sắp được về gặp má, nhưng xót xa tội nghiệp đứa con lên sáu của mình “Hai cha con dắt nhau ra tiễn. Chắc là con vẫn tưởng má đi công tác mấy hôm rồi về như mọi khi, hớn hở vẫy chào, toét miệng cười rất hồn nhiên. Mình lên xe, nước mắt cứ tuôn ra không dừng được”(11.8.1973)

        Tạm biệt một cuộc sống gia đình ở Hà Nội, rồi chị vượt qua bao chặng đường điệp trùng hố bom và đổ nát, qua bao địa danh Đèo Ngang, Đường 9 lên Khe Sanh, Ngã ba biên giới Việt Lào, đến bờ sông Bung, lại được “mắc võng” trên cây rừng Trường Sơn, đến miền Tây Quảng Nam,… chị gặp được bạn bè, chị học  thêm cách sống, điển hình của một Chính ủy Trung đoàn Huỳnh Phương Bá tiết kiệm từ việc vớt những hạt cơm thừa của một anh lính đổ xuống suối, chở che bảo bệ và cùng mọi người trong đơn vị nuôi dưỡng hai đứa bé bơ vơ sau trận chiến mù trời… Lệ Thu đã bắt đầu có những bài viết về họ để gởi Đài Phát thanh Giải phóng và cả Đài Tiếng nói Việt Nam. Có thể trong đời của một phóng viên nhà báo “… sau chín tháng trời lăn lộn nơi các chiến trường trọng điểm, những khu chiến ác liệt của Bình Định quê hương” lúc Về lại cơ quan chị mới nhận ra một điều tồi tệ:“…Bởi họ đã phản ảnh sai tất cả sự thật. TL có mấy khi xuống đồng bằng gặp dân đâu, chỉ nằm trên căn cứ đợi mình gởi bài về thì cắt xén lấy những chi tiết có giá trị xào xáo lại thành bài mới, rồi đứng tên gởi về ngoài kia, giờ ra ngoài ấy vỗ ngực ta tài giỏi, ta anh hùng!... Chán thật chưa chi đã giở cái trò Lý Thông!”. Sự thật là:“Đi chiến trường suốt chín tháng trời với những căng thẳng gian truân và vô vàn lần cận kề cái chết, đã gởi về bao nhiêu là bài vở để chuyển về Đài, giờ trở về nhận được những bức thư thật là chua xót. Ôi cuộc đời, biết nói sao đây nhỉ? Tôi không phải là người hay thanh minh- nhưng không biết họ nói gì với anh T. để anh ấy trách hận ta đến thế? Ta hoàn toàn trong trắng, trong trắng hơn cả một thiên thần, cả trong ý nghĩ và hành động. Chỉ tận tụy hy sinh cho sự nghiệp, cho mọi người và nghĩ về những điều cao cả tốt đẹp… Thiên hạ đùa giỡn vào hạnh phúc của mình và muốn đạp lên lưng mình để đi lên danh vọngNhưng mà sao ta lại khóc? Khóc để làm gì? Nước mắt có làm nguôi nỗi buồn oan ức của ta chăng? Viết thư để thanh minh ư? Không khi nào! Cả cuộc đời ta, thà chịu oan, chịu thiệt, chứ chẳng bao giờ làm việc đó”(11.9.1974). Cho chị nhận ra cái trò Lý Thông đã làm bế tắc nhận thức tâm hồn con người, khi họ chưa có ánh sáng của tri thức của tư tưởng lí luận đúng đắn nên kéo theo những hệ lụy đáng tiếc cho cả chuyên môn và nhân cách của một nhà báo như chị.  
        
         Còn thực tại trước mắt lịch sử đã chọn chị làm điểm tựa, chị xác định những gian khổ thiếu thốn từ những ngày ở Trường Sơn mưa dai dẳng và dữ dội, tất cả thống nhất ăn ngô, dành chén cơm chung ít ỏi cho Dũng đang bị sốt, cho đến khi trở về Khu 5, về đồng bằng chị đón nhận từ một “Chú bé liên lạc là người dân tộc Hrê, gầy và đen. Nó thấp đến nỗi mang khẩu AK mà mũi súng gần chấm đất… Nó rất ngoan và đầy trách nhiệm luôn bám sát mình không rời nửa bước,… căn dặn: chị nhớ lội đúng theo đường em vừa lội nè, chỗ khác sâu lắm đấy!”(29.12.1973), hay những cô du kích hớn hở đón tiếp: “- A, chị Thu, chị Thu. Chúng em chờ chị mãi từ tối đến giờ. Bao nhiêu đoàn đi qua, đoàn nào chúng em cũng gọi tên chị mà không có… Đứa cầm nón, đứa mang ba lô, đứa xách nước, chị em tíu tít mừng rỡ.”
        Điều làm cho chị quý hơn là câu chuyện “Một lần Năm cùng Thọ đi đưa thư, giữa đường bị địch phục kích, bắn chết Thọ, gói thư Thọ mang trong mình. Năm nghĩ: bây giò mình chạy thì chắc chắn thoát được, nhưng còn gói thư không thể lọt vào tay giặc. Phải lấy mang về cho bằng được. Nhanh như cắt, cô lao lên ôm gói thư chạy vụt trong tiếng súng bắn theo như mưa của địch. Nam thoát và mang được chuyến thư về trạm”(23.3.1974).
         Đến những người như “Lần đầu tiên gặp má Đốc, tôi có cảm giác như má đang bị đãng trí… thảng thốt, ngơ ngác,… nhìn tôi, hai hàng nước mắt rơi trên gò má,…thì thầm: Nó là thằng con cuối cùng trong năm đứa con của má. Hy sinh hôm kia, trong trận chiến đấu đánh quân lấn chiếm đồi Gò Tháp kia kìa. Hôm nó hy sinh má chỉ lặng im, không khóc, mấy đứa trước cũng đều thế, má không khóc đâu. Má chỉ hỏi lại anh em: “ Con má hy sinh có dũng cảm không?. Mấy đứa bạn nó kể: “ Chúng con chiến đấu suốt mấy tiếng đồng hồ, cuối cùng hết đạn, chúng nó ào lên. Không muốn sa vào tay giặc, anh ấy đạp bể súng và đập quả lựu đạn cuối cùng, bốn thằng lính và anh cùng chết! Má dừng lại, lấy tay quệt ngang dòng nước mắt, hỏi: - Nó hy sinh như vậy được đấy chớ, phải không con? Bây giờ đến lượt tôi thẩn thờ! Chao ôi, người mẹ Việt Nam! Má lại chỉ vào góc nhà, cười ra nước mắt nói với tôi: - Má đã chuẩn bị sẵn sàng một gánh củ và dừa kia, định gánh lên trạm thương binh cho chúng nó, mà mệt chưa đi được. Với lại đi thì sợ ở nhà không ai nấu cơm cho mấy đứa du kích nó ăn. Tội! Thôi, mai má phải đi một ngày, chúng nó trông má ghê lắm đấy!(16.3.1974).
        Và cảm động hơn chị trực tiếp trò chuyện về “cô gái Hoài Châu bị địch tra tấn trong tù bằng cách cưa chân thành ba khúc trong ba lần… em đã chết lịm vì đau, nhưng khi tỉnh lại, nghe chúng dỗ dành, em vẫn nhất quyết không khai. Cuối cùng chúng thả em ra chỉ còn một cái chân như thế này. Nhưng giờ đây Lịch vẫn là một cô y tá tận tụy phục vụ cho cách mạng. Mỗi lần đi giặt cho thương binh, em phải vừa ôm bọc quần áo đầy máu me, vừa lếch qua các tảng đá để đến suối…”(11.2.1974).
       Trên mỗi trang nhật ký đọng lại rất nhiều dấu ấn về cuộc đời của một  Ủy viên thường vụ Huyện ủy Nguyễn Tấn Tài(12.12.1974), có cả quãng đời cậu Lưu những năm tù Phú Quốc(29.12.1974), hay nỗi lòng từ “Chuyện riêng” của chị Bành Thị Ngọc Anh- Ủy viên Thường vụ Thị ủy Quy Nhơn sao “…chuyện của người ta mà mình cứ nước mắt đầm đìa” (21.4.1974),…
      Nhưng cũng có những lúc trong công tác dân vận lại cứng cỏi “Tôi bỗng nhiên trở thành một “chỉ huy”, nói với mấy em: - Trả lại cho chú ấy đi! – Rồi quay sang nói với người đàn ông kia: - Đêm nay chú suy nghĩ, mai đem nộp cũng được. Cách mạng sẽ không để sót một phiếu nào đâu!”(6.2.1974).
      Còn lúc Gặp những nhà báo Mỹ thì nhẹ nhàng mà sắc sảo khi phải trả lời câu hỏi:
     “- Chị nghĩ thế nào về những người đàn ông Mỹ?
     Tôi cười , đáp:
      - Khỏe mạnh, đẹp trai, tế nhị, phóng khoáng… Phụ nữ ở đâu cũng thích những người đàn ông như thế. Tất nhiên trừ quân xâm lược Mỹ - Những kẻ cẩm súng bắn vào nhân dân tôi!
     - Anh ta vỗ tay cười tán thưởng:
     - Tuyệt vời!... Chị là bà Nguyễn Thị Bình ở đây!”(12.2.74).

       Cây bút nhà báo chiến trường không bỏ sót một sự thật chiến tranh tàn phá: “Chín giờ sáng, tôi đang làm việc với Ban chỉ huy Tiểu đoàn 50 và đồng chí Trân, huyện đội trưởng thì phản lực đến ném bom tới tấp vào khu vực này. Mọi người lập tức xuống hầm tránh pháo. Tôi ngơ ngác chưa kịp xuống hầm thì quả bom thứ tám đã nổ đâu đây, gần lắm! Bụi đất và cây lá đổ rào rào úp lên đầu, lên mặt làm tôi thấy ngạc thở, tức ngực. Nửa cây mít che chỗ tôi ngồi bị tiện ngang, bay đi, cái nón lá của tôi cũng bay theo, tập giấy và cây bút đang cầm trong tay rơi mất lúc nào không biết! Tai nhức buốt, mũi đầy bụi đất, quần áo lấm bê bết. Mấy đứa nhỏ ngồi dưới hầm khóc la inh ỏi, các bà già rên rỉ than thở…”(15.7.1974).
        Những địa danh quen thuộc như Bãi Sác bên Đầm Thị Nại, Đầm Châu Trúc (Đầm Trà Ổ) ở Mỹ Lợi còn có đồi Gò Cớ,  Núi Sẻ ở Mỹ Tài,… đều là chứng nhân lịch sử gắn liền với những trận đánh của quân và dân ta trên từng trang nhật ký của Lệ Thu. Chiến dịch Hè- Thu 1974 (31.5.1974) cho đến Chiến dịch mùa xuân 75, tính từ lúc nhà báo Lệ Thu tham dự Đại hội Chiến sĩ thi đua của Tỉnh đội(2.1.1975) cho đến Đón Tết trên công trường(10.2.1975), kể cả Đêm bị phục kích ở Tân Mỹ(7.3.1975), Trong mắt người còn sống (27.3.1975) và kết thúc hoàn thành nhiệm vụ của một Nhà báo chiến trường ở Khu 5, Bình Định là Bài diễn văn ngày chiến thắng, được “đồng chí Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch UBND Cách mạng Nguyễn Trung Tín đọc một cách hùng hồn và xúc động, giữa tiếng hoan hô vang trời dậy đất của hàng vạn chiến sĩ và đồng bào Quy Nhơn cùng đại biểu các huyện trong cả tỉnh Bình Định tụ họp về đây- sân vận động Quy Nhơn- mừng quê hương được hoàn toàn giải phóng!” (8.4.1975).
         Có niềm vui trọn vẹn hơn là gia đình sum họp Má về từ nhà lao(8.4.1975), và có lẽ hạnh phúc đến với chị mỗi khi ở chiến trường nhớ về ba trong ba bức thư đã viết ở từng thời điểm khác nhau đầy xúc động: “Hôm qua con gặp má và hôm nay con phải viết thư ngay vì con nghĩ ở ngoài đó Ba đang ngóng lòng muốn biết tin tức của con và gia đình. Vả lại, biết đâu trong cuộc sống ở chiến trường này con có còn kịp viết cho Ba một bức thư trước khi ngã xuống hay không… không phải con bi quan đâu, nhưng đó là một thực tế không thể không nhìn thẳng… Đời sống ở chiến trường gian khổ và ác liệt chỉ càng làm cho con rắn rỏi và sống đẹp hơn thôi”(12.5.1974). Duy tấm lòng người mẹ yêu thương con sẻ chia vơi đầy trên từng trang nhật ký, chắc lọc nhất bằng những câu thơ: “Mai khôn lớn con nghĩ gì về mẹ/ Con nghĩ gì về một chặng đường qua/ Con nghĩ gì về đất nước chúng ta/ Nỗi đau lớn xuyên rất nhiều thế hệ?/ Không muốn lớn lên con phải làm nô lệ/ Nên bây giờ mẹ phải ra đi” là động lực cho chị càng vững tin dấn thân vào chiến trường và chị, nữ nhà báo Lệ Thu đã chiến thắng!...

         Ngày trở về “… chỉ có một chiếc ba lô nhỏ” đủ làm chút lửa sưởi ấm trái tim mình,  nhưng chứa đựng tài sản lớn: “Là vàng ròng của nhân cách, là đức hi sinh, là lòng vị tha, là thẳm sâu một nền văn hóa sống “vì nước quên mình” của ông cha muôn thuở” (1.5.1975). Chính vì vậy Nhật ký Nữ nhà báo chiến trường đã hoàn thành thật sống động xác thực, bởi tính độc đáo chọn lọc và hàm xúc, có tính chiến đấu và thời sự cao. Vẻ đẹp chân chính của một Nhà báo Lệ Thu chính là vẻ đẹp thời đại của người Việt Nam. Khẳng định sự lựa chọn hạnh phúc của mỗi người nằm trong hạnh phúc chung của dân tộc, tuy lâu dài gian khổ. Chị còn là một nghệ sĩ, một chiến sĩ thực sự có thể tự hào mình giàu có về chiều cao của nhận thức, chiều sâu sẻ chia đồng cảm, chiều rộng tâm hồn phong phú là nhờ thực tiễn cuộc sống tháng ngày ở chiến trường khu V, nhất là trên quê hương Bình Định lúc bấy giờ./.                               

                           24.4.2015/ Nguyễn Thị Phụng.

Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2017

GÌN VÀNG GIỮ NGỌC

GÌN VÀNG GIỮ NGỌC


Tiếng Việt Nam đa nghĩa đa thanh
Có khác đâu tiếng Anh, tiếng Pháp,…
Thuần túy xưa nay ráp vần chọn lọc
Giờ lợn cợn tạp âm chữ nghĩa lùng nhùng
Cách xen từ ngộ nghĩnh được không
“Khi quả đất hot* lên (hót phải là ríu rít?)
Ngỡ nhai sạn trong cơm có còn theo mô típ
Kiểu hành văn “đặc biệt” lạ lùng
Hay cố tình thích tắm ao chung
Ngôn ngữ Tây- ta cười ra nước mắt
Người Việt Nam há bao giờ từ khước
Biết dùng từ vay mượn để giàu thêm
Thuở nguyên sơ châu ngọc tự sáng trong
Tục ngữ, ca dao, Truyện Kiều,… vốn quý
Nói và viết tất cả đều thuần túy
Mắc mớ chi… không giữ ngọc gìn vàng!
                                     31.1.2010/ NTP
___________
*hot (tiếng Anh: nóng)

Nguyễn Thị Phụng