Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2022

NGUYỄN TRÍ VỚI MA LỰC CỦA CỘI NGUỒN. Nguyễn Thị Phụng

                  MỘT BÀI HỌC NHÂN SINH BẮT ĐẦU BẰNG SỰ TỬ TẾ

        
       Ma lực của cội nguồn(NXB. HNV- 2022) là tập tiểu thuyết thứ ba cũng là tập thứ 19 của Nhà văn Nguyễn Trí đã xuất bản trong mười năm lại đây, nhiều nhất là truyện ngắn. Đâu dễ gì sự đam mê văn chương từ tuổi thơ đến giờ đã thành hiện thực, cuộc mưu sinh đã nhào nặn quăng quật trong thế cờ người và chính nhờ “có bột mới gột nên hồ”. Dù là truyện ngắn hay tự truyện cô đọng, thì tiểu thuyết với Ma lực của cội nguồn cũng là loại tự sự với dung lượng lớn 320 trang của 8 chương, bao quát cả giai đoạn chuyển mình của xã hội miền Nam trước và sau 1975, có vị trí quan trọng về thời cuộc luôn chịu ảnh hưởng và trách nhiệm của người cầm bút. Những nhân vật nếm trải mùi đời, được cuộc sống dạy dỗ trong họ luôn ấm nóng dòng máu yêu thương đầy thần bí làm nên Ma lực của cội nguồn: “Giang hồ gốc Năm Cang nhận ra được làn khói của sự cô đơn từ từ bay ra khỏi mắt Jerry-Quynh. Đúng là vậy. Cái đôi mắt buồn không thể buồn hơn của ông ta từ từ sáng lên màu của hạnh phúc...”*

        Màu hạnh phúc được tô đậm cân bằng lẽ sống về tình yêu chân thật nhất, xoay quanh các nhân vật trong Ma lực của cội nguồn ám ảnh vòng xoay xuôi ngược đầy cung bậc mà con người luôn bị điều khiển bởi từ ma lực của đồng tiền và danh vọng cuốn hút. Trở lại bức tranh xã hội đầy biến động ấy, đứng góc độ nào thì người lao động dù chật vật do hoàn cảnh chưa thoát ra được sự kì thị sắc tộc từ trong chiến tranh và tàn dư xâm lược, mà nạn nhân vẫn là những người đàn bà không tránh khỏi chức năng sinh đẻ, trong thị phi của kẻ sĩ diện vốn có chưa mạnh dạn thoát ra được với chính mình. Kể cả những đứa trẻ khác màu da không từ sự bất hạnh người mẹ bỏ rơi, còn người nuôi chẳng xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, chỉ duy nhất với sự ích kỉ của mình. Ngay từ chương I, Nhà văn đã giới thiệu không gian quán “Thiên Thanh là điểm thứ dữ ở kinh tế mới M.”* Gặp gỡ và giao lưu để làm nổi bật nhân vật Năm Cang: “Dân chơi truyền rằng: Dữ ở đây là dữ tiền, dữ vàng chứ không phải dữ tợn đâu nghe- dữ tợn với Năm Cang- quản lý quán- là chết đó”*. Dân chơi có muốn gặp là phải đến lần thứ tư hình ảnh Năm Cang hiện ra “cao áng chừng mét sáu lăm, ria mép và mắt mí lót, lưng gù gù như gấu rừng lại đậm chất phong trần”* Và từ đó Nguyễn Trí khai thác tận cùng tư duy các nhân vật trong Ma lực của cội nguồn đằng sau các bộ quần áo xã hội đa sắc.

        Cái phong trần ấy đã gắn bó mối quan hệ giữa Năm Cang và Linda Đen- nhân vật chính, như thế nào. Thời thế có tạo nên anh hùng cưu mang những người bất hạnh, không là nghĩa hiệp mà cũng từ cơ hội đồng tiền cho cuộc mưu sinh. Điểm giống nhau Năm Cang cũng từ đứa trẻ đỏ long lỏng bị vứt ngoài sạp chợ được vợ chồng Nam Trắng hiếm con nghe lời mách đã lượm về nuôi. Dẫu gì Cang được đi học đến lớp năm và biết hái ra tiền từ việc “ dẫn gái cho Mỹ: “Ê... Boy...I want a street girl”*. Rồi bất hòa cái gọi là đạo đức giả, rẻ rúng khinh bỉ thường dân ít học là “vong bản” đu theo Mỹ kiếm sống, bắt nguồn xảy ra khi nghe Vinh, em vợ của một Trung sĩ nhất, như châm chọc mỉa mai khi “đọc thơ Đinh Hùng: “Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản/ Ta về đây lạ hết các người rồi. Lạ hơi thở lạ đời chung cách sống...”* Việc tranh luận hai chữ “vong bản” từ thằng học 12 đã thua hẳn lí  Năm Cang, ngược lại Năm Cang đã bị những cú đấm mạnh, đã phải về nhà xách súng quyết hơn thua đến cùng ở tuổi 17 đã vào tù từ tháng 2.1973, đồng tiền mau mắn của cha mẹ nuôi quyết định thời gian chỉ bảy tháng tù của Năm Cang lúc bấy giờ. Và bức tranh xã hội cũng phần nào không thể thiếu trong Ma lực của cội nguồn từ chuyện lính đào ngũ trốn quân dịch ở miền Nam là chuyện nhỏ và còn gói gọn một phần câu hát của Trịnh Công Sơn: “Cần sa, nhà thổ, bạch phiến, phòng trà vang tiếng người Việt Nam” qua hình ảnh “Lính tráng nằm gai nếm mật ở núi rừng về được phố sau ăn nhậu cờ bạc thì phải gái gú. Kiếp của họ là “Mày trước tao sau làm kiếp lính, chấp nhận thương đau chỉ một lần”*.

          Phải chăng cái bất bình nào đó đã tạo khí khái của một Năm Cang về lòng tự trọng sau cuộc trở về đến khu kinh tế mới, từ hoàn cảnh lưu lạc, Cang gặp được Trâm, làm nên lại một cặp, đồng tiền công sức Năm Cang luôn gặp ngách để quay đi, Cang đã bị lừa trong vụ đánh bạc, lại vào trại giam từ sự cả tin, sự phản bội cho Cang nặng phần nếm trải, và chính nơi nhà tù “Lão già đã dạy Cang thế nào là bình tâm với mọi sự. Tất cả có đó mà không. Cang ngộ ra rằng cuộc đời này bí ẩn như âm dương và mênh mông như biển rộng. Nó cũng rất dễ hiểu và nhỏ xíu xìu xiu.”* Đầy chiêm nghiệm và thử thách trong nhiều nghề như “truy lùng và buôn bán hài cốt Mỹ, chạy giấy tờ cho dân HO và môi giới con lai”* cho những ngày tiếp nối.

          Còn bé Đen bị bỏ rơi đến khi đứa bé lớn lên cái tên cũng không có, lại là công cụ lao động, còn bị miệt thị rẻ rúng cả thời thơ ấu của Linda Đen. Vì sao những đứa trẻ khác sắc tộc ra đời không được nâng niu, kể cả người thân trong gia đình, không chỉ là quan niệm lễ giáo ràng buộc mà cái chính là lòng hận thù ghét chiến tranh xâm lược đã đốt cháy nhận thức và tâm hồn, lương tri con người. Thể như có trường hợp Lướt, con gái ông Ngạn- theo cả gia đình rời vườn dừa chỉ vì thường ngày hứng lấy: “...Trên trời, “đầm già” của Cộng hòa ra rả rằng: “Yêu cầu đồng bào đang trong vùng Cộng sản tạm chiếm phải rời khỏi trong vòng... nếu không...”*, đi phụ bếp cho đơn vị Mỹ, có “... Thằng Mỹ gài chốt cửa rồi ôm lấy cô gái tội nghiệp. Nó nói nó yêu bởi cô đẹp. Lướt quá yếu nên không thể cưỡng lại được. Cô đã bị cưỡng bức một cách thô bạo và tồi tệ. Nhưng gã Trung úy yêu cô thật lòng... đến tận nhà xin cô Lướt làm vợ”*. Bị ông Ngạn đuổi ra khỏi nhà,...  Sự kì thị đã ruồng rẫy, ghét luôn những đứa con của kẻ xâm lược, những đứa con lai bất đắc dĩ hiện diện trên mảnh đất miền Nam, dù có tình yêu hay không tình yêu.

        Thể như thế cờ đảo ngược, khi diện những đứa con lai được về nước, lại là cơ hội cho mối lái Năm Cang dẫn dắt đầy thận trọng. Đen, là một trong những đứa con lai từ chỗ “Dân lai đen ở xứ mình phải bị sự hắt hủi đến kiệt cùng. Làm việc như con bò, nhưng được đáp trả lại như một con chó, còn bị gọi là mọi đen này nọ”* trở lại là người, được đối xử tử tế, được học biết tiếng mẹ đẻ, học thêm tiếng Anh, đầy đủ khai sinh, có tên trong hộ khẩu, là báu vật hái ra tiền. Ngỡ đơn giản mà rất nhiêu khê, cái lớp áo của chính trực và công lí được bóc tách từ bộ phận cơ sở thủ tục hành chính, cũng là một sự hoán đổi tiền và vàng.

        Cuộc trở về với cha của Đen trên đất Mỹ, cũng như những em bé lai khác cũng phải thay tên đổi họ khó khăn, Đen trưởng thành trên cội nguồn của mình, “Đen kể về bà Linda Martin cùng với ông cha trên xe lăn có tên là Jerry Quynh. Và cô lấy tấm ảnh cô Mai rất trẻ đang ngả đầu vào vai Jerry cho mọi người nhận diện. Đen nói, cô biết mẹ là ai khi chưa cầm tấm ảnh. Lúc đi chăn bò ở Hòn Ngang kinh tế mới, nhiều người đã nói cô có nụ cười của Yên”*. Và khi trở lại Việt Nam, điểm chọn là Đà Lạt trong bầu không khí mát dịu nhẹ nhàng cho Đen gặp lại mẹ, mà nhiều cuộc trở về khác góp phần không nhỏ trên vùng đất ngày xưa đầy tổn thương, giờ đàng hoàng tươi đẹp.

        Phải nói rằng Nhà văn Nguyễn Trí đâu chỉ là cây bút truyện ngắn thành danh với Giải thưởng của Hội Nhà văn từ tập Bãi vàng, đá quý, trầm hương (NXB Trẻ- 1913) đầu tay cùng nhiều giải thưởng sáng giá khác trong cách dẫn truyện như tâm tình sẻ chia, đôi lúc chiêm vài câu thơ câu hát minh chứng thực tế văn học chính là sổ tay kí ức vui buồn con người nếm trải lăn lộn với cuộc sống. Đời sống tiểu thuyết cũng vậy, sự phóng khoáng ngòi bút chính là phương thức tư duy nghệ thuật đặc biệt, nhà văn đã đi sâu khám phá tâm hồn tuổi thơ Đen nhớ về lúc ở nhà Hai Cu. “Bị khinh miệt như một thứ bỏ đi chỉ vì màu da của mình. Đen nói rằng mình đã cô đơn xiết bao khi không có bạn bè, không có lấy một tình thân ái. Cô chỉ là một nô lệ đúng nghĩa của nó ở mọi lúc mọi nơi trên đất nước nầy. Cô đã khóc và đã chai sạn khi biết mẹ và anh chị mình ở đó ở kia mà không một lần dám đến để làm quen. Đến Mỹ gặp được cha nhưng cô vẫn thao thiết mong một ngày về gặp mẹ. Và tự dưng nước mắt cô chảy thành dòng. Giọng kể đang đều đều tha thiết bổng xen vô tiếng tấm tức. Bất đồ bà má tên Mai choải người qua ôm chặt lấy Đen. Rất gầy gò bên đứa con lạc loài, bà cũng tấm tức khóc. Và cũng chính những dòng nước mắt tuy muộn màng đã khiến mọi người chừng như xích lại gần nhau hơn... Không gian cô đọng và thời gian chừng như đứng lại”*    

       Ma lực của cội nguồn khơi gợi không gian, thời gian tĩnh và động đan xen. Chúng ta nhận ra rằng, tác giả không là thượng đế, mọi sự việc rất khách quan được thẩm thấu từ mỗi nhân vật trong cách gọi tên để sẻ chia và bộc bạch. Nhà văn để cho nhân vật mình tự do chiêm nghiệm cho đời dạy dỗ lẫn nhau. Một giang hồ Năm Cang đã thành hình tượng trong tiểu thuyết Ma lực của cội nguồn, trên bước đường phiêu bạc kiếm sống, đời không cho Năm Cang trọn hưởng hạnh phúc một mái ấm gia đình từ ban đầu đến chắp vá với những khát khao. Có thể chiếc giày Năm Cang hơi bị lỏng so với đôi chân, nên lúc guồng quay theo tâm điểm đã phải trượt nhiều lần, có lúc dừng lại là cuộc trở về với cha mẹ nuôi, chỉ còn lại mấy anh em, mất mát bùi ngùi. Hay lúc trở về với con đường, góc phố nhỏ vắng vẻ sau chiến tranh cũng vậy. Cuộc ra đi từ cảng cá Q. đến khu kinh tế mới cho Năm Cang nhận ra biết bao con người, chớp lấy thời cơ dành cho kẻ đục nước béo cò, tìm chút trong rất hiếm. Nhưng Năm Cang đã gạn được và khơi trong chính mình. Đã sẻ chia cho Đen ngộ ra “Bức bối quá mới đành chứ má mầy không bỏ mầy đâu! Bà ấy đã khóc bao nhiêu trong cái đêm định mệnh ấy...niềm đau của mầy tuy lớn, lớn đến độ bốn biển trên trái đất nầy không thể chưa hết, nhưng dù sao, từ nhỏ cho đến khi rời khỏi đất nước này mày đã sống trong nó, bơi lội trong thiệt thòi hất hủi và khinh bỉ nên ít nhiều cũng quen...”* Đó có đủ là ma lực thuyết phục hay không mà cuộc trở về của Linđa Đen cũng không bất ngờ đã từng bỏ tiền ra làm Kara và khách sạn, và sẽ cùng chồng con về xứ này để sống.

          Cách sống của Linda Đen phải chăng cũng là hình tượng nhân vật thứ hai trong Ma lực của cội nguồn lần trở về lần hai gặp lại Năm Cang và nhờ mua lại mảnh đất “Xa khu công nghiệp như thế này mới là nơi để sống. Gần quá chịu không nổi với tiếng ồn và ô nhiễm đâu”* và cũng là được ở gần bên chú. “Nghe Đen nói sẽ về cái nơi mà nếu không có nấm mộ của con gái thì Năm Cang đã bỏ đi, tay bất đắc chí bật cười. Và Đen hiểu được cái cười ấy: - Con là người Việt bởi tâm hồn Việt chú Cang ạ! Con sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Chồng con cũng vậy. Chúng con muốn trở về. – Con cái mày thì sao?- Chúng là người Mỹ. Tâm hồn và văn hóa Mỹ chính thống. Chúng yêu nơi chúng sinh ra cũng như con. Vì sao chú không bỏ đất này ra đi?Vì nấm mộ của con gái chú đúng không? Vậy thì tuổi thơ con chôn ở đất này như con gái chú vậy”*. Vậy thì đồng cảm cho một sự tử tế với chính mình từ trái tim cả hai nhân vật Năm Cang- Linđa Đen. Cái màu hạnh phúc từ đôi mắt sáng lên của Jerry-Quynh lan tỏa không giới hạn. Từ nhận thức về tôn giáo cũng được nhắc đến trong nhân vật “Bé Nhỏ không tin thần Phật thánh tướng chi hết... Nhỏ thấy vô lí khi phải xin ai đó trên trời để đủ cái ăn. Nó nói với tình rằng chả ai ban cho đâu anh. Không đổ mồ hôi và nhận lời cay đắng của chú cả thì đừng có mà hòng”*, cũng như hạnh phúc đã đến trong trái tim người mẹ: “Và bà Mai đã nhắm mắt trong thiên đường nhưng không ở trên cao. Thiên đường ở hạ giới và nhỏ hẹp trong bốn mét vuông bằng gạch”*. Nơi mà anh con rể bà Mai xây thêm.

        Tiểu thuyết Ma lực của cội nguồn cho ta trân quý thêm hình tượng tác giả gửi gắm vào nhân vật chính về một bài học nhân sinh bắt đầu bằng sự tử tế ngự trị trong nhận thức và tâm hồn, không chỉ để tự cảm hóa mà nhân rộng tình yêu đến với cộng đồng, không tô màu gân guốc, thể sức hút lôi cuốn mạnh mẽ, dường như sự thần bí khó cưỡng lại trái tim dù khô cạn sẽ trở về nguồn cội gia đình, quê hương cho một lần được sống trên đời này./.

                                                          Bình Định,19.03.2022 / Nguyễn Thị Phụng

*Trích từ Ma lực của cội nguồn. 

Thứ Năm, 7 tháng 4, 2022

LỠ CUỘC TRĂM NĂM, Nguyễn Thị Phụng đọc Hồ như- Lâm Cẩm Ái

       LỠ CUỘC TRĂM NĂM


         Có ai tâm đắc cùng tôi câu ca dao: “Lỡ thương nên mới trách nhầm/ Lỡ yêu nên mới cằn nhằn cho vui”. Lỡ... chứ nào ai bắt buột. Cái bắt buột là trái tim có trong cùng tần số yêu chưa. Sự hòa nhịp lênh đênh như sóng biển ngoài kia lúc đan vào, lúc rã rời mỏi mệt níu kéo. Lực cũng bất tòng tâm, một khi con sóng quên bờ. Thật lúc rãnh rỗi sinh nông nỗi lên facebook. Văn hóa đọc trên facebook thể một sân chơi, lúc thủ môn, lúc trọng tài. Tôi vẫn là một trong những netizen tích cực hướng đến cái đẹp trong sinh hoạt thường ngày trên màn hình ảo mà rất “thiệt”. Cái thiệt là dừng lại đọc nhiều lần một bài thơ nào đó, đọng trong tôi những vẻ đẹp ngôn từ. Bài thơ Hồ như của Lâm Cẩm Ái , chị cũng là thành viên của huongxua. Org có thơ in trong tuyển tập Hương xưa gửi lại (NXB. HNV 2015), nằm trong danh sách ấy:

HỒ NHƯ

Những con sóng bềnh bồng trôi ra biển
có bao giờ trở lại hỏi bờ xưa
có bao giờ người hỏi đã yêu chưa ?!
mà vội vã quay đi không ngoảnh lại

Cát vẫn đợi ngàn năm nơi bờ bãi
ta vẫn hoài như tháp cổ thâm nâu
người qua đó hồn Chiêm đang bậc khóc
nhớ thương hoài vũ điệu Apsara

 Đêm nay lạnh ta gom mùa trăng vỡ
sáng lung linh nhảy múa ánh miên trường
trời mênh mông ngất ngây từng nhịp thở
gió đi về ôm lấy những lần thương

Chút hồn nhiên bỗng dưng đi lạc lối
ngã xóng xoài trên mấy nhánh ưu tư
ngày sỏi đá trăm năm đang bày cuộc
giấc mộng đầy vẫn thoáng chút hồ như.
                               (11 Tháng 5, 2021)

                  Ngay từ tựa đề mở ra sự tò mò đến tác giả bài thơ đã đặt ra phép thử. Cách ví von nhẹ nhàng cho những gửi gắm kín đáo đằm sâu. Tâm trạng được bộc bạch trong bài thơ chan chứa nỗi niềm khắc khoải nhớ nhung cho giấc mộng đầy. Cũng là cái cớ giải tỏa cảm xúc, biết rằng bể trầm luân định mệnh kiếp người không duyên cũng nợ với nhau. Cái duyên là gắn bó, cái nợ là câu mâu. Nếu theo quy luật tồn tại đồng cam cộng khổ, nếu chỉ riêng phía ngày thì đêm không bao giờ trùng hợp. Cái hồ như đã mở ra ngay khổ thơ đầu bất biến của nghìn năm vạn biến, cái cụ thể bồng bềnh, cái cố định bờ xưa từng là điểm tựa cưu mang, sự lặp lại “có bao giờ” hoài vọng gợi cho sự liên tưởng không còn là sóng biển là bến bờ, mà là cái tình tha thiết quá trong cân nhắc kĩ càng:

        “Những con sóng bềnh bồng trôi ra biển
          có bao giờ trở lại hỏi bờ xưa
          có bao giờ người hỏi đã yêu chưa ?!
         mà vội vã quay đi không ngoảnh lại

         Sóng là thế, muôn đời là sóng. Những câu phát vấn đã tự làm khổ mình trong âm thầm, sóng âm ngoài kia mạnh mẽ quá! Cái khổ len lõi đến đoạn tiếp theo là bày tỏ nỗi lòng, trong cách gợi “Cát vẫn đợi ngàn năm nơi bờ bãi” chắc chắn là ngàn năm của tự nhiên, con sóng và bờ cát. Nhưng chủ thể trữ tình đã bắt đầu thuyết phục: ta vẫn hoài như tháp cổ thâm nâu. Mặc định sự tồn tại trên đời này là có thật, dấu ấn khó quên, gắn liền với hồn Chiêm cùng vũ điệu Apsara, cái phù điêu vượt thế kỉ còn hiện diện hôm nay thủy chung và bền vững quá. Bao dung mở ra cánh cửa vị tha không giới hạn. Không ban phát mà đón nhận đợi chờ yêu thương đến rã rời từng viên gạch, như hồn Chiêm tháp cổ ẩn hiện đâu đây. Nép đẹp đôi tay tảo tần đã làm nên diện mạo nhân sinh. Sự ra đi và trở về luôn ưu ái cho những lần lữa rong chơi:

          Cát vẫn đợi ngàn năm nơi bờ bãi
          ta vẫn hoài như tháp cổ thâm nâu
          người qua đó hồn Chiêm đang bậc khóc
          nhớ thương hoài vũ điệu Apsara

      Hoài vọng theo thời gian những khát khao nhịp đời tuôn chảy, mùa theo mùa tiếp nối đi qua. Mùa sẽ chẳng bao giờ trở lại, nếu có trở lại cũng là những rêu phong vỡ nát hoang tàn. Thời gian là điểm trượt của hiện tại, trong thế khó cân bằng, cơ hội chẳng thể dành cho những hoang phí đời mình cùng gió mây. Nỗi day dứt đổ vỡ bật lên tiếng hát xua những phiền muộn gian nan, mất mát đơn độc say với nỗi đau tình đời thể như dành riêng cho ta vậy:

       “Đêm nay lạnh ta gom mùa trăng vỡ
         sáng lung linh nhảy múa ánh miên trường
         trời mênh mông ngất ngây từng nhịp thở
         gió đi về ôm lấy những lần thương

      Chất ngất ôm mộng, khó đánh đổi nỗi đau dày xé tâm can, muốn hòa nhịp cùng trời mây sông nước, quên đi tất cả mà sao khó quá. Nếu lỡ đa mang cũng đành, nhưng nhân vật trữ tình trong bài thơ lại chính là "ta" mạnh mẽ, ngông nghênh thiên về lí tính, oằn sâu vết sẹo của trăm năm, thể di căn buốt giá một tâm hồn không tránh khỏi, khi không thuộc về nhau:

           “Chút hồn nhiên bỗng dưng đi lạc lối
           ngã xóng xoài trên mấy nhánh ưu tư
           ngày sỏi đá trăm năm đang bày cuộc
           giấc mộng đầy vẫn thoáng chút hồ như

        Chỉ thoáng chút hồ như sao? Những hụt hẫng bơi tìm giấc mộng lại gặp đớn đau là thử thách con người đầy trớ trêu phận bạc. Những mơ hồ xa xăm ngổn ngang hiển hiện trước mắt, choáng hết góc đời. Mặc sự độc thoại đã thành tứ thơ trên sườn cũ cho một sự hồ như mãi mãi của riêng ai. Thì ra, con sóng kia chỉ là ẩn số và phù điêu trên tháp cổ mới chính là nàng thơ hòa điệu múa thăng hoa cảm xúc vậy mà...

                                                            07.04.2022 / Nguyễn Thị Phụng. 

Thứ Tư, 6 tháng 4, 2022

NHƯ NHỮNG DÒNG TRÔI, Nguyễn Thi Phụng đọc thơ Nguyentiet.

 

NHƯ NHỮNG DÒNG TRÔI

        Vẫn giữ thói quen mỗi ngày lướt facebook, tôi đã dừng lại ở chùm thơ bốn câu của nickname Nguyentiet. Chị tên thật là Nguyễn Thị Tiết, nguyên giáo viên toán THCS ở thành phố Quy Nhơn, cũng là một trong những người yêu thơ và sáng tác của huongxua.org- Trang của những người yêu kỉ niệm xưa, có mặt trong tập thơ in chung: Hương xưa gửi lại (NXB. HNV. 2016). Nhưng cảm xúc thường ngày được sẻ chia sâu lắng nhẹ nhàng thể như nhật kí thơ sau những cuộc rong chơi:

         1.  Nắng ươm vườn hoa cải

               Gió lay cánh thật thà

               Vàng một thời con gái

               Mùa đợi mùa... xuân qua...”

        2.  “Thoang thoảng một góc quê

               Hương xoài che kín lá

               Thương chùm hoa không lạ

               Một nụ cười an yên”

       3.  “ Róc rách chảy qua truông

               Chiều chia sông hai nhánh

                Dòng trôi vào canh cánh

                Dòng trôi vào triều dâng...”

                                       (22-02-2021)

         Thơ có là sự trải lòng, là san sẻ chút tình vơi đầy nhân thế. Người sáng tác thường không bị gò bó áp lực khách quan, để được những tứ thơ trọn vẹn với mình, nguồn vui không chờ sự tương tác, vốn ở họ là dành dụm yêu thương, quyến luyến nhẹ nhàng với cuộc đời đã từng xuôi ngược đó đây. Không gian một góc quê giải tỏa bao bức rức thường nhật chen lấn tâm hồn, cảnh được sinh ra cho người tận hưởng, vô tư sắc hương mời gọi. Cảnh là lực hấp dẫn cho những ai cùng hòa nhịp trong từng khoảnh khắc. Nguyentiet đã bắt gặp sự hòa quyện của mình với vườn cải giữa không gian có nắng ươm vàng, gặp nguồn gió xuân dìu dịu, yêu quá cái đẹp tuổi xuân, và khát vọng đợi chờ tuổi xuân sẽ mãi mãi nối tiếp:
            Nắng ươm vườn hoa cải
              Gió lay cánh thật thà
              Vàng một thời con gái
              Mùa đợi mùa... xuân qua...”

        Nếu ở cảnh thứ nhất là sắc vẽ nên sự ấm áp về một màu rất tự nhiên ươm vào nhau “Nắng ươm vườn hoa cải”, còn tác động của gió cũng rất tự nhiên, thật thà mơn man thoáng lướt. Từ sắc của nắng, của hoa chuyển sang người thành gam màu mới:“Vàng một thời con gái” cho sự nuối tiếc, trêu ngươi, hoài vọng.

                  Thì cảnh thứ hai, bài thơ thứ hai là một bức tranh hiện hữu được khám phá từ mùi hương, thoang thoảng hương xoài êm ả theo mùa xuân mà trổ hoa tự chu kì của cây ăn quả. Hoa xoài có lạ đâu, bé trắng hơn cả hoa cải kia, li ti kết lại từng chùm, mỗi cái hoa bé xíu ấy chắc hẳn sẽ an yên hơn, nếu không bị rầy, sâu bọ,... thì không lâu cho một quả xoài chín mọng thơm ngon như ước muốn:  

              “Thoang thoảng một góc quê
                Hương xoài che kín lá
                Thương chùm hoa không lạ
                Một nụ cười an yên.

        Hiện hữu nụ cười an yên trong cảm nhận, không náo nức mà bình tâm. Trong cách nói dân gian hễ “được mùa xoài, mất mùa lúa” hay ngược lại cũng vậy. Giữa cái được và mất, luôn song hành. Cái được của chị lúc này thiên về mùa hương hoa lan tỏa che khuất chiếc lá kia, chính mùi hương đặc trưng choáng ngợp khứu giác bấy lâu ngỡ lặng yên giờ lại ùa về cùng lúc, vừa tận hưởng làn hương ấy vừa bối rối xôn xao cho hạnh phúc thực tại lúc này. Phải chăng chỉ có ở nhân cách tâm hồn kín đáo lắng nghe, sẻ chia một tứ thơ đầy nhân văn, cao đẹp.

         Đến tứ thơ thứ ba mới thực là cái tình muốn nói. Luyến tiếc một sắc xuân, làn hương rồi theo mùa đâu giữ lại. Cái giữ lại có phải là sự tác động thanh âm róc rách, đánh thức không gian chừng như vắng vẻ, vừa kịp lắng nghe, vừa tỉ mỉ quan sát trong hình dung nào đó:
            “ Róc rách chảy qua truông
               Chiều chia sông hai nhánh
                Dòng trôi vào canh cánh
               Dòng trôi vào triều dâng...”

           Cảnh được phát họa trong liên tưởng, đánh thức tư duy của hai mặt đối lập không còn là dòng sông chia hai nhánh của tự nhiên nữa, dòng sông đời người từ cội nguồn dâu bể đang bị cuốn xoáy tách ra. Cái ngoại cảnh miên man chiều thật trớ trêu, cái ngoại cảnh có thể là khách quan đi chăng nữa, có chăng là một tâm hồn bị dao động bởi tiếng róc rách kia như nhịp thời gian kim đồng hồ tí tách vậy, cùng hướng về thực tại của hai ngã rẽ kia: “Dòng trôi vào canh cánh/ Dòng trôi vào triều dâng”. Mút tầm dòng trôi là quy tụ cái kết chỉ trả lời một nửa canh cánh hướng về. Nơi đây, triều vẫn dâng, biển dậy sóng đầy vơi không thể nào tĩnh lặng cũng là tự nhiên đất trời, con người nương vào nhau tồn tại.

        Sự đánh dấu thứ tự ba bài thơ trên trang facebook của Nguyentiet ngỡ độc lập, nhưng vẫn liên kết theo một chủ đề: bắt gặp ngoại cảnh chi phối, con người không thể không sẻ chia./.

                                           06.04.2022 / Nguyễn Thị Phụng