Thứ Tư, 22 tháng 7, 2020

HÃY THỨC CÙNG ANH, đọc Đi và về- thơ Nam Thi


                       HÃY THỨC CÙNG ANH
          Hãy thức cùng anh là cụm từ trong câu thơ “Em hãy thức cùng anh đêm nay” (Uống cạn chén trăng rằm)* mong em“ Cứ say cho đời thôi hiu quạnh”. Thì ra thi sĩ đang cô đơn thật rồi, cần lắm “em” cho và nhận, tiếp nối vun đắp và sẻ chia dù chặng đường đất nước từ Tây Sơn – Sài Gòn Đi và Về *thường niên không khó. Cái khó đã làm cho anh bối rối một vầng trăng giữa trời sao mời gọi chúng mình.
           Đọc thơ Nam Thi thể như cách nói của tục ngữ, ca dao vô cùng thâm thúy dẫu chưa là “thành ngữ” để khẳng định nhưng đủ chín vàng ươm hấp dẫn người tiếp nhận. Bởi làng quê Thuận Nghĩa dọc bờ sông Côn sinh ra anh, chăm anh trưởng thành, nên tứ thơ anh tràn ngập cái tình sắt son, đôn hậu chừng mực của bậc cao niên đã ngoài thất thập trên vùng đất võ Tây Sơn này.
         Nếu như tựa đề tập thơ “Tôi không tìm thấy tôi”(NXB HNV 2019) đầu tay của anh, giả dụ là một ẩn số thách thức bạn đọc, tìm gặp anh trên mọi chặng đường từ thời trai trẻ và những chiêm nghiệm đã qua, là sự giao lưu “ngoạn mục” để bày tỏ chính kiến của một công dân, hay truyền thống gia đình nhà báo Nam Thi, qua câu chữ anh cố tình hé lộ bí mật để thỏa đam mê khôn cùng. Phải chăng đó là Hạt ngọc* được mẹ đã từng “mớm cho tôi những ngày cạn sữa”. Hạnh phúc với lúc đói có sẵn cơm thơm, lúc khát có sẵn nước lọc tinh khiết. Và bây giờ người dùng phải tự tay mình làm ra. Dễ gì có được mùa hoa tử kinh quê nhà sang hè từng chùm hồng thắm trĩu cành cho người săn ảnh đẹp, cũng phải chăm nom từ cuối thu năm trước. Thơ anh cũng vậy. Cái đẹp không chỉ ở câu từ , chính cái hồn cốt văn chương bật mí: “Ở nơi đâu/ Không gian không có chiều nào/ Và thời gian cũng không bắt đầu và kết thúc/ Anh với em không gần mà cũng không xa nhau./ Em hiện ra và biến mất/ Như ảo ảnh trên sa mạc/ Nhưng anh tin em có thật/ Ở đâu đó mà anh chưa biết.”(Hư & thực- trích tập Tôi không tìm thấy tôi). Thì ở tập Đi và Về (NXB HNV 2020) này bù đắp khao khát ăm ắp tình: “Tôi muốn em là hoa/ Trên đời tôi cằn cỗi/ Chút hương thầm thoáng qua/ Giữ thời gian không vội/... Tôi muốn em là sông/ Mang tình tôi ra biển.../...Tôi muốn em là em/ Gần tôi như hơi thở...” là tự sàng lọc chính mình.
        Đi và Về theo mùa đất trời tự nhiên, phù hợp với lẽ đời. Và mỗi bài thơ bắt nguồn từ cảm xúc của thi nhân, đều hợp thành mảnh hồn văn học phục vụ đời sống con người. Không là bất chợt mùa đại dịch, dẫu bực bội trong ngày: “Từ góc cách ly sao hôm lẻ loi/ chênh chếch đầu ngọn cây leo lét/ như mắt chiều hấp hối/ Lời kinh cầu vỡ vụn tiếng chuông rơi”(Cách li chiều)* thì “Lời chim hót trong lồng”* chính là ban mai minh chứng lẽ sống an nhiên cho mùa của lòng người không còn ngột ngạt mà tỏa hương tận hiến. ...v v...
        Thơ Nam Thi đã hoàn lại không gian cho sự tĩnh tâm yên bình lắng nghe vọng lại. Hay còn là sự lan tỏa bức tâm thư: “Phép lạ đến từ mẹ đất/ đã duy trì sự sống hàng tỉ năm/ Qua những kỷ băng hà/ hỏa diệm sơn và thiên thạch/ lưỡi gươm hay bom nhiệt hạch/ thiên tai và nhân họa/...” ập đến. “Phép lạ” ấy cộng với ơn trời mưa nắng phải thì, cộng với cần mẫn đôi tay thường ngày, dẫu sao “những cánh rừng Tây Nguyên/ trụi lá thời chiến tranh/Nay đã thành ruộng đồng tít tắp màu xanh” trong cách so sánh: “Đất mẹ vẫn bao dung, nâng niu sự sống trường tồn/ Những chồi non nhú lên/ Những hạt giống dưới lớp tro tàn sẽ mọc/ thành cây thành rừng bạc ngàn/ Tình yêu cũng sẽ trường tồn như thế/ Hãy tin và biết ơn mẹ đất/ như tin ở tình yêu bất diệt”(Hãy tin ở mẹ đất)*. Bởi Trọn đời mẹ ở cùng con*chăm chút nuôi dưỡng cho anh có những câu thơ phóng túng thỏa đam mê hướng về cái thiện, cái đẹp trong cuộc đời này.

       Không gian và thời gian Đi và Về nhất quán đồng hành cùng thi nhân. Chẳng thể cất giữ riêng mình nỗi nhớ quê (Ngày xửa ngày xưa, Hẹn hò hoa tử kinh, May mà còn có hoa và em,...)*, thao thức nhớ nhà da diết bên cạnh Người đàn bà thức đợi bình minh* kể từ Đêm trừ tịch*, hay Độc hành chiều giáp Tết* cùng sẻ chia Nỗi niềm với Quy Nhơn – Sài Gòn*, có thể lan rộng ra cả nước và thế giới, để thay đổi cách nhìn lại về “thời điểm bắt đầu một kỷ nguyên thái bình/ tình yêu ôm trọn hành tinh” và không chế, khuyên can: “Xin đừng đếm ngược ngày tận thế/ nhầy nhụa máu xương và thù hận/ ngập tràn rác và chất thải độc hại”(Nào ta cùng đếm ngược)*. Đó còn là sự sống dân tộc và nhân loại kịp thời đánh thức anh và tất cả khi trở lại Thành phố lúc 3 giờ sáng* trong cao điểm chống Covid-19:
      “Thành phố đang ngủ say
      Em cũng đang ngủ say
      Con virus corona không biết ngủ
      đang ẩn nấp đâu đó
      trong phổi người mắc dịch
      và gặm nhấm trái tim con người...”
      Còn riêng anh “... thức cùng những viên cuội/ và trái tim mình/ nàng Apsara vẫn mỉm cười chúm chím/ Chén trà đã nguội/ Và phương đông đã hừng sáng/ Một ngày bắt đầu như mọi ngày/ Cách li và gần gũi/ với mọi người/ và với em.” Yêu biết chừng nào.
        Không là sự lựa chọn thi pháp khi thể hiện chủ đề nhất định, làm sứ mệnh phản ánh hiện thực, Nam Thi lại thanh lọc ngôn ngữ thiên về thể thơ tự do xuyên thấm vào trái tim người tiếp nhận cùng đồng cảm sẻ chia nào đó, mở rộng nâng cao tâm hồn mình như thực tại “đại dịch” thế kỉ đang đe dọa sự sống con người trên toàn thế giới. Làm cho ta bừng tỉnh nhìn nhận ra bức bách xã hội còn là trách nhiệm chung của cộng đồng, trong đó có ta. Bên cạnh ấy, thơ anh khắc sâu nhắc nhở thương mình, thương người cùng với việc lo chung cho đất nước(Hạt ngọc, Cơn mưa và hạn hán, Lời chim hót trong lồng, Hãy tin ở mẹ đất, Quê hương, Cùng hát tình ca bạn nhé, Quê hương, Bão lửa,...)*.

       Đi và Về  là tập thơ thứ hai, cùng với hai tập truyện ngắn của Nhà báo Nam Thi xuất bản trong năm 2019 và 2020. Tất cả với anh như là kỉ niệm lưu lại bạn đọc khi Tôi không tìm thấy tôi * nữa!... Nói có cơ sở, thơ anh làm tôi thật sự xúc động: “Nhớ linh xưa/ Thanh gươm yên ngựa/.../ Nghĩ mà thương/ Thanh kiếm cùn rỉ sét/ Lâu lâu lôi xuống lau chùi/.../ Nghĩ mà tậu/ Một hôm tráng sĩ già ngồi khóc/.../”(Dũng sĩ chém gió)* và tôi đã “khóc” theo tráng sĩ già cùng “văn tế” sống này./.
Tháng sáu 2020/ Nguyễn Thị Phụng.
_________
* Tên bài thơ trong tập


Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2020

CHƯNG CẤT HƯƠNG ĐỜI, Nguyễn Thị Phụng


                         CHƯNG CẤT HƯƠNG ĐỜI


      (Đọc tập thơ Nụ hồng cho Trái đất của Võ Ngọc Thọ, NXB HNV-2020)
      Khái niệm “Người ta là hoa đất” thuộc về tục ngữ xưa nay. Thì tập thơ Nụ hồng cho Trái đất của Võ Ngọc Thọ đã minh chứng phần nào cốt lõi hương hoa được chưng cất hàng mấy năm ròng mới có được. Và đây là tập thứ năm Võ Ngọc Thọ đã xuất bản, mỗi bài thơ là cảm thức về con người và thời gian không còn xa lạ, trái lại khắng khít thể như hình với bóng, hơn nữa là trách nhiệm thuộc về nhau rồi.
       Nụ hồng cho Trái đất là người mẹ bao dung muôn đời bất tử. Chẳng còn là giả dụ thời gian vòng quay bốn mùa, lại chỉ dành riêng một ngày nói về thiên nhiên cho Trái đất, không phải thiệt thòi mà nhắc nhở sẻ chia tình người bên nhau thắm thiết, ý thức cộng đồng bảo vệ hành tinh xanh. Và nếu như Nhà thơ Định Hải xác nhận “Trái đất này là của chúng mình” thì Nhạc sĩ Trương Quang Lục dẫn dắt tuổi thơ: “Quả bóng xanh bay giữa trời xanh” cho các em yêu màu hoa, màu da sắc tộc và bình đẳng con người. Thì riêng Võ Ngọc Thọ dành Nụ hồng cho Trái đất(Viết nhân ngày Trái đất)*về dấu ấn khó quên từ những thiên tai: hạn hán, lũ lụt, sóng thần,... đến những trận động đất kinh hoàng chỉ trong khoảnh khắc sáu mươi giây: “Sau hàng trăm năm ngủ quên/ Trái đất cựa mình/.../Haiti tan hoang đổ nát/ những xác người chết nằm la liệt/ những người may mắn sống sót vất vưởng đầy đường/ những gương mặt thất thần ngơ ngác/.../ những phận người thê lương” (Trái đất sau hàng trăm năm ngủ quên)*. Cái bất chợt quặn lòng, cái bể khổ trước mắt không riêng phận người thê lương, đã có Nụ hồng cho Trái đất san sẻ.
        Thiết thực nhất, gần gũi nhất là tình yêu bắt nguồn từ Âm vang tiếng sóng*: “Đi dọc vạt nắng chiều hôm/ nghe trong biển mặn hương thơm đất trời/ người đi ngược gió tơi bời/ âm vang tiếng sóng vọng lời nước non”. Và nếu như Những tượng đài*(tr. 58) là sự lựa chọn về nhận thức: giữa hi sinh, an nhiên và bình thản- giữa tận hưởng, ngụy trang và dối trá thì lời nước non nhắn nhủ theo nhịp sống, nơi con đường thường ngày đi về thôi thúc tấm lòng người mẹ đẹp tựa một bài thơ, một vầng trăng tròn sáng tỏ, lung linh tình người mẹ hiến tạng con gái chết não ở bệnh viện Chợ Rẫy đã ngộ ra: “Xác thân rồi cát bụi/ nhưng còn đó:/ trái tim/ lá gan/ và hai ... quả thận/ Người Mẹ gần như chết ngất/ khi chần chừ.../ hiến tạng của con// Con thân yêu/ Mẹ muốn thấy trái tim con còn đập/ quả thận con còn lọc/ lá gan con còn được tưới máu tươi/ chỉ mình con cứu sống bốn người// Con thân yêu/ con vẫn ở cõi người/ ở trong lòng người/ Mẹ xin lỗi/ con ơi!”(Tấm lòng người mẹ*). Phải chăng ta có thêm tượng đài người Mẹ được nhà thơ trân trọng viết hoa là vẻ đẹp tư duy khoa học tiến bộ ấm áp nhân từ. Rồi đến cả Chị quét rác* hằng đêm làm sạch đường phố, mong mỏi gởi vào “giữ sạch lề đẹp lối em nghe”(Chị lao công- Tố Hữu) thế mà “lề” không giữ “Kẻ nát rượu lái xe/ đã không cho chị được sống”.  Và chị đã hóa thân: “Chị đã biến thành con sóng/.../ Chị biến thành ngọn gió/.../ Chị biến thành ngọn lửa/ sưởi ấm con...”. Những người bình dị đời thường mà cao cả đã đi vào trang thơ Võ Ngọc Thọ, đó là điểm nhấn trong Nụ hồng cho Trái đất.
        Và nếu như điểm nhấn cho tập thơ Võ Ngọc Thọ bắt nguồn từ tình yêu đất nước: “Tôi nghe tiếng em bé/ Bập bẹ chữ Việt Nam/.../ Tôi nghe tiếng ngọn sóng/ Nghẹn lồng ngực biển đông/.../ Tôi nghe tiếng sông núi/ Vọng lời hịch cha ông/...”(Tôi nghe)* thì hình ảnh Cây bàng chứng nhân*(tr.34), cho đến Hương quê*(tr.50) Nhơn Lý được nhắc đến. Nhưng cũng từ ấy thì Chiếc áo ấm của ba tôi*(tr.54) khắc ghi dấu mốc thời gian: “Chiếc áo theo ông Cụ từ ngày đi tập kết/ ra Bắc vào Nam/ đằng đẵng hơn hai mươi năm/ chở che ông bớt rét lúc xa nhà/ ấp ủ trong tim bao hoài bão...” cho nguôi ngoai nỗi nhớ, mà nén niềm hân hoan. Võ Ngọc Thọ- người con mượn hình ảnh chiếc áo nhớ ngày đi tập kết của cha mình là lời nhắc nhở công ơn để đến ngày trở về bao thảng thốt:
        Ngày đất nước thống nhất
         ông trở về thăm quê
         chị Hai tôi không còn nữa
         ông khóc
         sao con không nán đợi ba về!
        Ngày đất nước thống nhất
        ông trở về thăm quê
        chú Chín đã hi sinh trong hang Núi Bà
        xương thịt tan vào đá
...”
      Chiếc áo ấm của ba tôi và thời gian của năm tháng khắc khoải đâu riêng mỗi gia đình, mà trở thành kỉ vật chung cho bao thế hệ tiếp nối duy trì bảo vệ quê hương: “Ông trao chiếc áo cho tôi làm kỉ niệm/.../ Tôi lại trao chiếc áo này cho các con tôi/ như trao một báu vật/...”. Với người cha, là niềm tự hào. Riêng với con gái lại là nỗi nhớ khôn nguôi khi đọc Hoa cắm cho con*( tr.79), không khỏi bùi ngùi số phận ngắn ngủi tuổi xuân chưa kịp cống hiến, bởi thường ngày “hồn con lạc bến chơi vơi”. Thương và nhớ thường trực trong cảm xúc thi nhân từ : Một đóa vô thường* cho đến Những đóa tình* về một sự thật thời gian: “Muốn hay không/ Ta vẫn thêm tuổi nữa/ Khi xuân về gõ cửa trái tim// Hôm nao tóc xanh/ Tràn nhựa sống/ Nay bạc mái đầu/ Bạc những khát khao” nhưng từ ấy bật ra:
        Kìa mai vàng đang nở
         Những đóa tình tin yêu
        Những đóa tình kịp bung nở tỏa hương trong Nụ hồng cho Trái đất chính là sứ mệnh thi ca, tập trung chủ đề viết về đất nước và con người nhân hậu làm nên mùa xuân Với đời* (tr.94). Bởi nơi đó có Khung cửa*(tr.95) bao dung đón chờ, sẵn lòng mở ra: “Có một khung cửa/ đi về mỗi ngày/đều đều quen thuộc/ khung cửa thời gian/.../ khung cửa tâm hồn// .../ khung cửa tự do//.../ khung cửa riêng mình/...khung cửa tình yêu”cô đúc, lắng đọng. Nụ hồng cho Trái đất giàu suy ngẫm về tâm hồn đồng điệu, một bức tranh hiện thực đầy: “Sống động và thú vị/ Với những/ Con người/ Cây cỏ/ Hoa trái/ Đôi lứa yêu nhau...”(Quên). “Quên”* là khẳng định cái nhớ, việc phải làm tựa một danh ngôn. Hãy dành Nụ hồng cho Trái đất như dành môi trường sống cho con người, như tự bảo vệ chính mình các bạn ạ./.
10.07.2020/ Nguyễn Thị Phụng
___________
*Tên các bài thơ trong tập.