Thứ Ba, 11 tháng 8, 2020

Người không thể dậy, truyện ngắn Nguyễn Thị Phụng

       Người không thể dậy*


       Cả làng chúng tôi chờ đợi và nghĩ thế nào cô cũng đến. Mà quả thật, thằng bé lên năm ngồi chơi bên thềm nhà reo lên: 

      - Mẹ ơi, có phải cô mang đôi giày đen đội cái mũ rộng vành màu tím đang tiến dần vào sân nhà mình, mà lạ lắm, không như người khác chỉ liếc qua, còn cô ấy đứng thật lâu, thật lâu trước tấm bia mộ, đăm đăm đôi mắt vào những giọt máu nhỏ xuống của bà con làng xóm mình. Mà hình như cô ấy còn mấp máy đôi môi như là đếm từ trái sang phải từ một giọt, ba giọt, hai giọt, ba giọt, bốn giọt, rồi tiếp một giọt, ba giọt, một giọt, ba giọt, và cuối cùng ba giọt, hai giọt, hai giọt từng cụm với nhau. Những giọt nhỏ có phải là máu của con của bạn con, những giọt lớn hơn là của mẹ của ba, của các dì các chú, và những giọt lớn hơn nữa có phải của các ông, các bà phải không mẹ?!... 

      - Ồ, đúng đó con trai. Những giọt máu hình quả bầu chới với giữa chân không như đời đời kiếp kiếp cứ lơ lửng rơi trong tầm mắt quan khách. Bàn tay hội họa tài hoa ở trần gian đâu chỉ phản ánh còn gởi cả hồn mình vào đấy rồi nên mới có sức thu hút đôi mắt những người như cô ấy vậy.

     - Như cô ấy là sao, con ứ hiểu!

     - À, lớn lên chút nữa con sẽ hiểu. 

     - Mẹ lạ ghê, tính đến nay đã gần nửa thế kỉ rồi, ngày nào mẹ bảo con còn nhỏ chưa đi học được. Rồi hằng đêm mẹ ôm con vào lòng à ơi, mẹ nói cả nhà chúng ta chỉ dừng lại tại đây, có muốn già đi cũng đâu được. Cả xóm mình cũng như ở một số vùng khác nữa đâu có diễm phúc được theo quy luật tự nhiên sinh lão bệnh tử như thế nào Mẹ không nhớ à!...


       Người mẹ quên mất những gì thường nói với con mỗi khi màn đêm buông xuống. Có những lúc trăng lên, nhất là rằm Trung Thu, chị ước ao cho thằng con trai mình xách lồng đèn ngôi sao năm cánh vàng tung tăng với các bạn trong xóm, vừa đi vừa hát “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi, em rước đèn đi khắp xóm làng, ...”. Đời con mình không thể. Chị ôm con vào lòng, không hát ru nữa mà nó ngủ từ lúc nào, chị trầm ngâm ừ nếu không có ngày ấy... thì giờ tuổi mình cũng vào thất thập. Cũng lên đến chức bà nội bà ngoại rồi còn gì, có khi lên đến chức cố nữa kia! Chị quên là phải, bởi lúc đó chị mới vừa ôm thằng bé nằm đong đưa trên võng đã nghe chó sủa tới tốc rồi mọi âm thanh đùng đùng, ầm ầm gầm rú dội tứ bề át cả tiếng chó, tiếng gà xao xác vỡ tung ổ trứng của mình, tiếng vịt quáp quáp hốt hoảng thể như chuyện lạ xưa nay.   

          

        Còn chị bế chặt thằng bé chạy xuống hầm tránh bom. Bất ngờ trước mắt chị một màu xanh da beo đứng chặn ngang cửa ra vào, chị nghe tiếng xí xố xì xồ phát ra từ cửa miệng, nếu bình tĩnh định lại để so sánh với một tiếng nói nào đó thì khó mà so sánh được. Nếu tiếng hươu, tiếng nai quả là hiền hòa. Nếu là tiếng dê, tiếng bò tiếng trâu tiếng ngựa thì chỉ biết reo vui khi ăn no cỏ, chỉ có loài sói, loài cọp thì đôi mắt tập trung rồi nhanh như chớp nhảy đến vồ con mồi của mình ngốn ngấu trong miệng... Đằng này mọi thanh âm tứ phía trộn lẫn vào nhau, từ ông bà già đến chị em phụ nữ, trẻ con lớn nhỏ bất ngờ với tay không làm sao chống lại được những vũ khí tối tân nhất. Đùng, đùng, đùng,... thằng bé ngã theo chị trong tư thế ngửa mặt lên trời cao, mà trời cao chưa thấy chỉ thấy mái nhà tranh đã chuyển màu tím ngắt, rồi màu đỏ đòng đọc từng chòm rơi xuống, còn thằng bé nằm im bên chị, mặc cho lửa nóng liếm nhanh lên tóc, lên áo quần, lên cả da thịt. Chị nằm im trên nhà mình cho đến khi không còn tiếng súng nổ. Hai mẹ con chị nằm bên những người cùng số phận... 


        Nắng cuối hạ rực cả lối đi, hàng cau đã được trồng lại từ lúc nào, giờ đứng lặng im và cái bóng cô gái đi một mình bên ngoài ấy ngỡ dấu chấm câu kết thúc trưa hè cũng đứng lặng hơn trước nền nhà chị dâu tôi, cô ấy ngó vào những cây cột bằng gỗ quý nằm lại giữa làng Sơn Mĩ, lũ ve ở đâu về sinh sản nhiều lắm trong bụi rậm cứ the thắt, thắt the não nề thống thiết lắm. Oan ức nào cũng phải giải tỏa. Mà đã giải tỏa chưa. 


Người đàn bà mặc chiếc áo đen tay trái bế con, tay phải đang còn cài nút áo có trong tấm ảnh treo ở Bảo tàng Sơn Mĩ ấm ức: “- Thân phận tôi là đàn bà, lúc ấy đang ở thế bị động phải giằng co níu giữ đứa con lên ba bị thằng đàn ông lớn lắm, nó cao gấp rưỡi tôi, đưa tay vứt đứa con tôi sang một bên, con tôi lòm còm ngồi dậy, rồi sợ quá, không dám thét tiếng thứ hai, ấm ức ngồi trước mặt tôi, lắm lét đôi mắt hoảng hồn vào tôi, và có lẽ lần đầu tiên tuổi thơ không biết nói cái cảnh mẹ nó giữa nhà đầu tóc rối bù, thân mình trần trụi tái tê phải nằm dưới thằng đàn ông to gấp rưỡi mà trên lưng còn súng ống băng đạn lục cục va nhau vào bình đông nước. Sau khi xả cơn dục vọng, nó đứng lên, đi ra ngoài. Nhưng thằng khác đâu cho mẹ con tôi yên, chúng vào nhà lùa cả mẹ con tôi cùng ba người hàng xóm bên nhà ra đứng góc sân ấy. Tôi chưa kịp tủi nhục với chồng, với con, với anh em, với cha mẹ,... tôi chưa kịp rùng mình ớn lạnh, hay hằn học với thằng người to lớn ấy, hay nói đúng hơn chưa kịp hoàn hồn, thì khẩu súng trước mắt chúng tôi lóe sáng, tôi chới với cả người rồi đôi chân khụy xuống khi cháu nhỏ còn trên tay tôi!...”


     - Cả hai mẹ con chị cùng hai mẹ con mình đều nhập nhoạng vào hư không cho đến bây giờ con ạ! Người đàn bà cứ rưng rức theo tiếng ve mà the thắt lòng.

    - Vậy sao đã mấy mươi năm rồi bây giờ mới kể con nghe vậy mẹ!

    - Ôi, chuyện người lớn tò mò bức tranh của mấy phóng viên chiến trường thời đó mà!

    - Sao con chẳng hiểu gì cả!... Thằng bé cứ hồn nhiên nghe ngóng! 

    - Có lẽ con còn bé, con chưa hiểu điều gì, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Sự thật chiến tranh chẳng thể già đâu con ạ! Chiến tranh đồng nghĩa hủy diệt. Mà hủy diệt chỉ có tiêu vong. Làm sao đứng dậy được. Người không thể dậy chính là chúng ta ở nơi này. Sở dĩ cô gái đi một mình ngoài kia khát khao một lần đặt chân trên mảnh đất quê mình, và cô đang đứng lại, nhưng không, mẹ nhìn theo cô gái vẫn đang tiếp tục sang khuôn vườn bên cạnh, à cô gái bước vào nhà thắp hương cho cả gia đình chú út, cô gái ấy không dám đi ngang qua căn buồng nhỏ nối từ nhà trên xuống bếp. Mẹ thấy cô ấy khựng lại, cúi đầu quay người ra sân, rồi đi vào căn bếp, ngắm nghía vật dụng trưng bày nào là cái cối xay lúa, cái mâm gỗ, chén bát đất, cái trã, cái trách kho cá cũng bằng đất nung, một mớ tre gai làm củi đốt ngả màu vàng ệch được bó chặt lại để bên dưới chân ông táo đã cũ lắm. Nào là thúng mủng, cái dừng lúa, cái sàng gạo cũng bằng tre, kể cả cái lồng bàn bằng tre cũng nằm im trên tường đã nói điều gì đâu mà đôi mắt cô gái cứ rươm rướm vậy!... 

      - Thật hả mẹ!

      - Ừ, chuyện con chưa biết thì mẹ nói. Đừng hỏi lại. 

      Thằng bé im lặng ngẫm nghĩ chỉ nhớ một điều mẹ nói “Chiến tranh chẳng thể già đâu con ạ!” 

                                                           05.09.2013

_________________________

*Trích Nơi tình yêu giữ lại (NXB HNV 2018)


MÙA CỦA XUÂN XANH, thơ Nguyễn Thị Phụng

 

MÙA CỦA XUÂN XANH

 

Anh bảo mùa của thi ca là cánh én, là hương sen,

là lưng chừng mây trắng là màu nắng nhuộm vàng

hay là cả đông tràn buốt giá

cánh đồng làng run rẩy những dấu tay...

 

Cho em thêm mùa của hôm nay

là màu áo trắng lương y trên tuyến đầu chống dịch

cứu lấy bệnh nhân thoát khỏi tử thần Cô-vid

đêm dõi đêm, ngày dõi ngày tất bật

khống chế lây lan làm suy hô hấp con người

quên cả thân mình những đôi mắt yêu ơi

vì tất cả Đà Nẵng ta, sông Hàn se thắt!...

nâng vũ khí hăng say là tinh thần diệt dịch

là màu áo “chiến binh ra trận” thường ngày

đón đưa dân mình về điểm cách li

dẫu rào chắn nắng chen mưa còn rơi rụng

chia nhau những hộp cơm thơm từ bếp ăn chật vật

ấm no mỗi bữa trong ngày...

là những con đường “khẩu trang”,là nhắc nhở rửa tay

tránh nhiễm Cô-rô-na ngấm ngầm tai họa

là nhắn nhủ ân cần giãn cách

là nén nụ hôn đầu giữ nguyên vẹn ban mai./.

08.08.2020

Thứ Hai, 3 tháng 8, 2020

TRĂNG RẰM GIỮA MIỀN QUÊ, truyện ngắn Nguyễn Thị Phụng

TRĂNG RẰM GIỮA MIỀN QUÊ*


          Trăng ở miền quê tôi đẹp lắm, cái đẹp tự nhiên của đất trời ban tặng con người. Và con người có quyền chiêm ngưỡng thưởng thức. Có ngắm kĩ mới thấy nó tròn trịa phúc hậu, nó tinh khiết và bình yên đáng yêu làm sao. Giả như có đêm rằm nào đó, những áng mây đen khó tính ganh tị che khuất tầm mắt người, thì hôm sau hoặc hôm sau nữa, hay tháng sau tháng sau nữa,… trăng vẫn sáng một màu, cái màu vàng ròng bất tận vô giá chảy xuống trần gian khó mà kim cương hột xoàn nào đánh đổi được. Nói đến cái đẹp của trăng không chỉ có rằm tháng giêng đến với ngày hội thơ tình người của đất nước. Cũng không phải là đêm rằm tháng tư của Phật lịch ngàn năm đón chào đấng Thích Ca Mâu Ni ra đời, cứu nhân độ thế, hay chay trai cầu nguyện lòng thành tích đức cho con cháu mai sau. Cũng không phải là rằm tháng bảy lễ xá tội vong nhân, Vu Lan báo hiếu cha mẹ trọn đạo làm con, ơn nghĩa sinh thành. Cũng không phải là rằm tháng tám dành riêng cho tuổi thơ tung tăng rước đèn kéo quân, phá cỗ vui chơi thỏa thích. Nhưng với tôi, giờ đây mới nhận ra được giữa mùa xuân trăng đẹp đến lạ thường!...

Đó là trăng rằm ở miền quê tôi.

      Khi chiều tím lắng đọng phía chân núi mờ xa thì đằng đông trăng đã hiện ra từ lúc nào nếu lấy thước đem đo phải ước hơn cả hai cây sào dài tính từ mặt đất lên. Trăng lơ lửng giữa cái nền xanh thẳm ngỡ như đang đứng trước biển nhìn ra màu trời nước bằng một giải phân cách đậm nhạt như tranh vẽ. Ô, trăng sáng giữa bầu trời tháng hai!


          Có lẽ lúc này, cả làng quê đều bận rộn. Người thì lo cho bữa cơm gia đình, người thì lo tắm rửa giặt giũ áo quần cho con cái, người thì lo gà vịt vào chuồng, che chắn cho bò heo khỏi lạnh, … Còn tôi, vẫn thói quen thong thả đánh đều tay nhịp bước 30 phút trước khi mặt trời lặn. Rồi chợt nhớ chiều nay quên đi chợ, thế là thẳng hướng ra khỏi cổng làng đến nhà chị Thư mua vài trứng vịt về luộc dằm nước mắm chấm rau cải xanh cũng ngon miệng lắm.Nhà chị Thư nằm cạnh quốc lộ 19, gần chợ nhỏ, cách Tháp Bánh Ít chừng hai cây số. Phía trước hiên nhà , chị kê cái tủ bán hàng lặt vặt nào bánh ngọt, mắm muối, thẻ nhang, cặp đèn cầy,… Tôi chờ chị thối tiền cho người ta xong, mới nhắc chị mua thêm bì muối iod nữa. Cạnh cửa ra vào là một cái xách nhựa trong đó đựng hoa tươi, chuối,…Tôi nhắc chị có ai đã để quên, chị Thư nhìn tôi và bảo không đâu em, chút nữa chị chở ra mả cúng dì. Thế là chị cho em đi với, từ hôm dì mất đến nay hơn nửa năm rồi, em thật có lỗi chưa biết mộ dì chỗ nào! Tôi chưa kịp nói không có em ở nhà, sáng đó em đi Buôn Mê Thuột. Chị nhớ có tên em hôm đó mà! Như chứng tỏ chị không bỏ sót danh sách người nào đến phúng điếu má chị. Tôi ngạc nhiên: Trời đất ơi, chị nhớ chi cho kĩ vậy! Theo em chuyện phúng viếng đem đồ lễ đến nhà có tang để thăm hỏi và tỏ lòng thương tiếc đối với người đã khuất là việc làm tự nguyện, sẻ chia, ai mà đòi hỏi chờ người trong gia đình mình mất rồi họ có đi lại không?!... Cũng như đám hỉ thì đến chúc mừng, chia vui, chụp hình gặp gỡ thân tình lại được chén một bụng no nê còn gì sướng bằng. Chị nói một mạch để phân trần: nghĩ như em thì ai nói làm gì, chuyện điếu là việc tang và hỉ là việc mừng đều quan trọng cả. Chị kể dì út Tám ghi ngoài phong bì đi điếu chị ba, cháu Thư nhận.Có người còn nhắn hỏi nó có ghi tên tao đi điếu nữa không. Mà em xem hai nhà cách nhau chưa được trăm mét, dì Tám không đến được thì còn con gái của dì phải không em?! Chị nghĩ đến thắp cây nhang chia buồn với gia đình là chị cảm ơn nhiều… Nhưng chị không bao giờ quên một ai.

        Tôi hiểu và quý chị như dì ba.Lúc dượng chưa kịp đi tập kết, cơn đau bụng quằn quại trong hai ngày rồi mất, chị Thư mới vừa lên năm. Từ quê chồng Phù Mĩ, dì ba trở về Tuy Phước, chăm chút con gái, âm thầm giúp đỡ bà con hàng xóm, nhất là gia đình người thân có chồng, con đi tập kết. Dì gởi miếng cá, lọ tương, bó rau, cái bánh ít,… và phía sau là câu chuyện liên lạc dượng sáu bị địch bắt ở Pleiku, chuyện trao trả tù binh, chuyện chị Phương lên gặp dượng sáu, chuyện chuyền tay nhau tấm hình từ ngoài Bắc gởi vào mà nén nước mắt. Chị Thư học ở dì tính thích cho, gởi biếu.Thường từ chối nhận lại đến phát ghét khi tôi đem những quả xoài đầu mùa chín mọng tươm mật đến. Tôi ra nhà sau lấy con dao gọt vỏ rửa sạch, cắt một miếng đưa lên miệng khen ngọt lắm, cắt miếng thứ hai mời chị mới đưa tay cầm nếm thử rồi tấm tắc: chị tưởng chua chứ!...Tính chị Thư là như thế. Dì ba mất, chị sống một mình với đồng lương hưu tiện tặn cũng đủ cho sinh hoạt cá nhân ở vùng quê này. Gần sáu năm nay chị thừa hưởng thêm hàng quán bé nhỏ tại nhà từ lúc dì ba còn khỏe lắm!...

       Chị tiếp, thường là mùng một, rằm chị đều ra thăm dì, nhưng không đi sớm vì khi cúng xong, nhang chưa kịp tàn, mấy đứa nhỏ chờ sẵn lấy hết chuối bánh, chị không thích điều đó. Em nghĩ coi, cúng xong để tàn nhang chị cũng cho chúng nó ăn, chứ má chị có ăn được đâu, đã đem ra mả cúng thì ai lấy về làm gì. Trên đường đi chị còn kể tiếp chuyện bà Thơm mang hoa quả ra mộ cúng ông Thơm, quay về nhà lấy hộp quẹt, khi ra lại không còn thứ gì đặt lên mộ để cúng nữa em ơi! Bà Thơm khấn vái xin ông thứ lỗi. Chuyện cúng kính nghi lễ với nguời đã khuất đã có từ xưa nay, người sống đối với người mất ngoài cái tình còn hiện vật mới biểu hiện sự quan tâm nữa hay sao! Hương hoa chưa đủ nói hết lòng nhớ thương tử biệt này!...

        Dọc con đường bê tông hơn cây số, trời đêm càng lúc càng sáng hơn, trăng lạnh có phải là hơi sương giữa mùa xuân còn chùng chình luyến tiếc chưa muốn rời xa con người, hay là cái cảm giác vắng vẻ nơi nghĩa địa lúc này chỉ có hai chị em tôi. Đêm trăng hôm nay đâu chỉ là chiếc đèn soi bóng chị dắt chiếc xe đạp chở cái giỏ xách phía sau, tôi lo lắng hỏi:

       - Thế đêm ba mươi, mùng một chị cũng đi một mình à!

       - Thì… một mình có sao đâu em! Chị đem theo cây đèn pin, nhưng cũng có lúc giật mình khi mấy đứa nhỏ núp sẵn trong mả, thấy chị đến, nó chạy trốn chị đấy. Ai xa lạ đâu em, như anh em thằng Lươn, thằng Lịch con bà Thổ trong xóm mình. Đâu phải hộ nghèo.Mà nói thế, nếu chúng nó không lấy về ăn, chỉ để ruồi bu kiến đỗ, mình cũng phải dọn sạch đem đổ ngoài bụi cây.Cười.

       Nghĩa địa làng tôi là một cái gò rộng nằm giữa đồng, thường gọi là gò Ông Trới, cạnh con mương thủy lợi. Thường ban ngày, dù nắng hay mưa, mỗi khi tiễn một người trong làng mất theo tiếng trống đưa ma, tiếng kèn đưa đám réo rắc lòng người, âm thanh là một sự lặp lại không bao giờ thay đổi, không phân biệt giới tính, tuổi tác, giàu nghèo, bước chân tôi cứ nặng nề trên con đường mòn dẫn vào phần mộ đã đào sâu ba lớp đất… cho đến khi hạ huyệt xong, mỗi người vốc một nắm đất đắp thêm cho phần mộ vun cao, rồi hồi trống kết thúc số phận một con người, thì ai về nhà nấy, lòng trĩu nặng bâng khuâng.

        Lần đầu tiên tôi đi thăm mả dì ba, cũng là lần đầu tiên đến nghĩa địa vào ban đêm.Không phải là đêm ba mươi. Đêm rằm tháng hai, trăng sáng vô cùng. Bốn bề im ắng, im ắng đến lạ lùng. Thường giữa đồng không như thế này, ếch nhái rộn ràng trò chuyện, nhưng từ hôm tết tới giờ trời chưa mưa. Cũng không có tiếng vạc kêu đêm, tiếng chim lạc bầy gọi nữa. Chỉ có gió, gió thì thầm với tóc với áo rồi len lỏi vào sống lưng tôi, tôi rùng mình nhìn dáng chị Thư mảnh khảnh nhỏ nhắn trong bộ đồ màu đen, dựng chiếc xe đạp,  lui cui chiếc xách bên tay rồi bước đến phần mộ trước mặt bảo má chị nằm đây nè em. Chị vói tay lấy cây chổi phía trên quét sạch trước cửa mộ, đặt cây đèn hột vịt bật lửa thắp sáng  cạnh tấm chân dung của dì. Bên phải là lọ hoa cúc, bên trái là đĩa chuối mốc to chín vàng cùng hai phong bánh bột huỳnh tinh mà lúc sống dì ba rất thích ăn sau bữa cơm, uống ngụm nước trà cho thơm miệng. Chị Thư thắp ba cây nhang rồi lâm râm khấn như thầm thì điều gì với mẹ.Tôi cũng thắp nhang cho dì tự giới thiệu tên mình, cầu mong linh hồn dì sớm siêu thoát nơi miền cực lạc, còn chốn dương trần thì chúng con cố gắng sao cho trọn bổn phận làm người. Đôi mắt nghiêm nghị của dì từ lúc nào sao giờ lại nhòe đi, hay khói hương làm cay mắt, hay dì xúc động có đứa cháu đến thăm dì giữa đêm rằm, hay dì còn muốn nhắn nhủ điều gì nữa!.. Ngọn đèn dầu ấm áp soi rõ khuôn mặt của ba người. Người nằm dưới mộ sâu kia một đời trọn vẹn thủy chung với chồng con, với họ hàng làng xóm.

        Và đến khi ánh vàng đêm trăng âm thầm vô tư chảy mãi miết trên mái tóc hai chị em chúng tôi, gió lùa vào khoảng lặng, chị mới đứng lên cắm nhang các mộ phần xung quanh cũng không đủ, hương theo gió khép kín các mộ phần khu nghĩa địa. Những cái mả gió (còn gọi mả cô hồn) nằm cạnh dì ba cũng được chị Thư cho người xây lại theo hình chóp nón chừa một lổ nhỏ để cắm nhang, chị đặt lên đó một nhánh chuối nhỏ rồi lâm râm khấn: xin người láng giềng để má tôi được nằm bên cho vui. Chị vừa cười vừa đưa tay chỉ cho tôi xem phía trên phần mộ dì ba là một ô hình chữ nhật được xây một lớp đá chẻ ngay ngắn là nơi mà những người làm mộ cho dì ba đã chọn dành cho chị sau này, rồi chị nói không có nằm ở đó đâu. Tôi ngạc nhiên: A, thì ra chị sống suốt đời?!... Chị đang nghĩ (mà nói riêng với em thôi) là sẽ hiến xác, nhưng chưa biết cách nào đây! Tôi phì cười, đến lúc đó, chắc gì nội tạng chị đảm bảo đủ 100% không đấy! Chị dứt khoát với tôi là đủ 100% tốt lắm, chị không đau bệnh gì, kể cả… chị ngập ngừng không nói tiếp. Tôi đùa kể cả còn…con gái chứ gì! Ha…

      - Mà sao chị ở một mình?

- Ở với má chứ sao một mình, em khéo hỏi.

Được thể tôi mạnh dạn hơn, đây là điều chưa ai dám mở miệng về chị:

        - Không, em muốn biết tình yêu của chị kìa!

        - Chị mang trầu cau đi hỏi mà người ta không chịu, không ưng, nên chị ở vậy. Rồi chị đánh lảng, em lung tung quá.

        - Em mà nghe chị nói sớm cái quy định chế độ mẫu hệ áp dụng và duy trì cho người kinh lại hay đó nghen. Bọn đàn ông chỉ có nước ế vợ như chơi, lúc đó “ mua về mà bỏ trong lồng cho kiến nó tha”.

        Cả hai chị em thoải mái thư giãn giữa nghĩa địa chỉ có trăng mênh mông, trăng nhìn xuống, trăng im lìm, trăng ngờ vực, trăng ngậm ngùi,…


       Điện thoại reo: em đang ở đâu? Ra ngoài xem trăng đêm nay đẹp lắm, tròn lắm, to lắm. Thời sự VTV1 mới đưa tin đây! Đâu phải bây giờ tôi mới ngắm trăng, tôi đã ngắm từ lúc chiều, trên đường ra nghĩa địa, trong nghĩa địa và đang về nhà đây.Quả thật trăng đẹp.Tôi có thể khẳng định chỉ có miền quê trăng mới đẹp, màu vàng lung linh vô tận, công bằng sẻ chia cho tất cả không phân biệt với một ai, cái đáng trân trọng của tự nhiên là như thế.Ngọn đèn đường lúc này tự thấy mình có thừa ra không? Tôi không dám đề cập đến việc tiết kiệm điện, với tôi, chỉ có ngọn đèn thiên nhiên mới là trong lành,vĩnh cửu.

        Đêm nay, ngồi trên ghế đá trước nhà, thức cùng trăng đi ngang qua đỉnh đầu.Tôi chẳng vướng bận lo âu một điều gì, con cái cũng đã lớn, ngoài đồng lương hưu hàng tháng nhận về tiêu hết là xong. Tôi cũng chưa nghĩ như chị Thư lo đến cái chết cho mình, mà quý chị ở cái tình đi mua từng lạng đinh về đóng từng cái đòn nhỏ cho hết người này đến người kia, bỏ vào bao đem tặng nhà chùa để khi ngày giỗ các bổn đạo vào bếp ngồi nấu nướng cho đỡ mỏi chân. Chị phân loại tặng mấy cái đòn nhỏ cho các cháu ngồi mua bán đồ hàng với nhau, dành những cái đòn lớn xếp chồng lên ngay ngắn để ngay trước hiên nhà mình cho anh chị em công nhân sáng sớm ngồi chờ xe đưa đón, còn bảo tôi lúc nào đi Sài Gòn lên ngồi đây chờ xe cho đỡ mỏi chân nghen! Những cái đòn làm ra từ việc tận dụng những miếng gỗ vụn, gỗ tạp chị mua về nấu nước mà làm nên sự quan tâm thật đơn giản trong cuộc sống đời thường. Nhưng tôi làm sao quên được vào những buối chiều cái dáng chị đang ngồi đóng đòn, mắt cứ nhìn chừng sang bên kia đường, rồi vui vẻ đứng lên bảo chờ chút theo sau tiếng gọi: Bà hai ơi, dắt cháu qua đường! Đó là tiếng của mấy cháu nhỏ trong xóm đi học về, mà cha mẹ chúng còn bận đi làm chưa đón kịp.

        Nếu như hồi đó…chị cũng có những đứa cháu như lũ trẻ bây giờ gọi bằng bà nội, bà ngoại kia! Nhớ trên đường đi về, hai chị em chậm bước, chị kể hồi đó anh ấy yêu tha thiết lắm chứ! Mà sao thời con gái, lúc ấy chị ba mươi rồi, chị cũng chờ và khao khát cho anh, thế nhưng đến với nhau, anh lại dè dặt, còn bảo chị hãy cố giữ gìn. Mà chị thì…chị thèm chút hơi hướng đàn ông sao anh không cho, không đáp lại.Hay là chị nghèo, gia đình anh cũng thuộc diện cơ bản mà. Rồi tên anh có trong danh sách đợt  đầu tiên của xã đi kinh tế mới Cát Tiên Lâm Đồng, anh nói đi vài năm hoặc cũng có thể lập nghiệp nơi ấy, chưa hẹn ngày về. Chia tayanh trong nước mắt từ lúc ấy và anh khuyên chị lấy chồng. Lúc đó má chị nói hay là… giờ má còn khỏe, con có ý định đicùng với nó lên đó mà lập nghiệp làm ănlà tùy ở con quyết định. Còn chị thì đang đi làm, sao bỏ việc nhà nước, nên cứ buồn buồn làm sao, muốntheo anh lại thương mẹ cả một thời thanh xuân góa bụa, giờ thì tuổi tác già nua, sao chị nỡ đành…

        Hình như, nghe nói là ba năm sau anh lập gia đình. Nghĩa là sau trận ốm sốt rét li bì trời đất, được cô điều dưỡng ở bệnh viện còn chăm thêm anh miếng cháo, miếng canh, cho tình anh gần gũi thân thương tự nhiên nảy nở, như hoa gặp nắng cho sắc đậm màu, cho hương ấp ủ. Vậy là Tâm, vợ anh là bạn cùng lớp với bọn chị. Tự nhiên chị thấy tưng tức như con người ghét những áng mây đen che khuất ánh trăng rằm. Bất chợt, chị nhìn lên bầu trời trong xanh quá, không một gợn mây, màu trăng ngọt ngào thanh tao tỏa sáng. Chị trầm tư... Rồi kể tiếp, cũng mừng anh khỏe mới lấy được vợ, có một đứa con gái, tiếc là cháu bé lớn lên năm tuổi mà cứ quặt quẹo chân tay, không phải là sốt bại não, mà qua kết quả xét nghiệm của Bệnh viện Nhi đồng thành phố là cháu bị ảnh hưởng chất dioxin từ những năm bảy mươi anh đi bộ đội!...

       Trăng tĩnh lặng.

       Tôi lại tiếc, sao lúc nãy chị Thư nài tôi ở lại dùng cơm chay với chị, có thể còn được nghe chị kể thêm về thời xưa nữa kia, nhưng tôi dị ứng món xì dầu, xin phép ra về. Ngày mai đi sớm xuống chợ cảng Quy Nhơn mua cá cơm mùa này về làm nước mắm để dành ăn trong những tháng mưa và gởi vào thành phố cho các con cùng dùng nữa chứ!

       Trăng giữa vòm trời xanh đã chênh chếch bóng phía sau nhà.

                                                                                 Rằm tháng hai, 2011 

*Trích tập truyện ngắn NƠI TÌNH YÊU GIỮ LẠI (NXB HNV- 2018)