Thứ Bảy, 27 tháng 1, 2024

TỪ MỘT TỰA ĐỀ của Nguyễn Thị Phụng- đọc “Đánh đu sợi tóc” của Lê Văn Hiếu

TỪ MỘT TỰA ĐỀ

     Nếu hạt muối thơm ngon từ biển sinh ra, thì thơ là mạch sống khơi nguồn ngôn từ của thi nhân. Dẫu ít nhiều trăn trở. Đôi khi ngỡ áp lực tảng đá đè lên ngực, đôi khi mong manh như sợi tơ, sợi tóc bám víu cuộc đời. Ấy vậy phía sau Từ một tựa đề, thi nhân cá cược cả tập thơ: “Đánh đu sợi tóc”(NXB BNV- 2023) ra mắt bạn đọc cho thỏa mới thôi.

     Với Lê Văn Hiếu, Đánh đu sợi tóc là tập thơ thứ chín. Tự tháo gỡ cảm xúc mình bằng cách nâng niu con chữ thể nâng trứng hứng hoa cho mỗi tứ thơ của mình. Sự lựa chọn tựa đề, hẳn nhiên không thể dễ dãi. Đánh đu sợi tóc thể trêu ghẹo cuộc đời, hay trêu ghẹo mình, và sợi tóc đã thành hình tượng mà thi nhân sẻ chia.

      Biết rằng chỉ một Tản Đà táo bạo “Cung quế đã ai ngồi đó chửa/Cành đa xin chị nhắc lên chơi”(Muốn làm thằng cuội). Biết rằng những ngàn cân treo sợi tóc của thực tại bấy giờ... Biết rằng nắm người có tóc, ai nắm kẻ trọc đầu. Biết rằng cái răng cái tóc là vóc con người. Kể từ trước đó cho đến:“Cái ngày/ Nhặt một sợi tóc là nhặt một bài thơ/ Nhặt một cái nhìn/ Là thấy mình bồng bềnh trôi về đôi mắt ấy...”(Gót chân hồng)* Và bồng bềnh trôi đã thành cái nghiệp đeo bám thi nhân, thể cái đích của hình tượng theo cấu trúc tứ thơ như một bức phát họa ngôn từ đa thanh sắc.

       Đánh đu sợi tóc là một hiện thực tư duy hình tượng rất Lê Văn Hiếu: “Mang đến chùm nho không mang xác Cáo/ Ta một thợ săn nhưng chỉ săn tình.../... Ta mộng uống nụ cười trong trẻo em”(Một cuộc hẹn tưởng tượng)*. Biết bao chân tình, biết bao khao khát. Hồ dễ ai đánh tráo tật nguyền, vẹn nguyên trước sau như một. Dẫu cái tình đời nắng mưa phai nhạt, dẫu chuyện trăm năm thử thách tâm hồn, thì với anh là sự khẳng định: “Ta xông xênh chiếc áo mới/.../ Chân ta bước mạnh hơn/ Cánh tay ta vung xa hơn/...”(Một trời chim én bay)*. Để đi tìm mùa xuân, mùa xuân chẳng ở đâu xa, cái đẹp của mùa xuân là cái đẹp của thi ca anh đang vói tới: “Một thời ngón tay ta mòn những đốt/ Một thời ngủ thức đợi xuân”. Cái “ta” trong thơ Lê Văn Hiếu không còn là duy trì trải nghiệm, bởi đã chỉn chu trọn vẹn, nâng cao cây bút tài hoa vốn có trên vùng đất quê mình cho sự chọn lựa phong cách.

       Từ sự tiếp nối chung quy những Tơ tóc, Sợi tóc buồn, Tóc trên đầu động cựa, Uống rượu với tóc đã có trong tập Nỗi cô đơn với lửa (NXB HNV 2020) mà Lê Văn Hiếu chưa thỏa cơn say. Cái say bật dậy từ Cái tuổi ta về* nâng niu trìu mến: “Chúng ta lên thuyền và đi thật chậm/ Ngược dòng ngược dòng nghe em”. Sự chuyển dịch tâm hồn cho một tình yêu thiết thực tự nguyện của thi nhân. Sự khám phá tổ ấm đời mình, đời người khác nào: “Bài thơ ta biết đi/ Thả lên trời chim hót/ Ta là cánh chim trời/ Sá gì cái quán trọ/ Mai về ta ru nôi”(Chim trời và quán trọ)*đầy bất ngờ sáng tạo liên cảm xúc kết nối như trong Giấc mơ và cánh đồng*: “Trên ổ rơm anh ngủ/ Mơ cuộn tròn trong em” ấm áp, an lành.

     Từ góc độ nhỏ trong Đánh đu sợi tóc, người đọc nhận ra đời thực thi nhân là gì, cái viên mãn chưa hẳn là vầng trăng đêm rằm thực thể của tự nhiên chế ngự trần gian. Cái đẹp vĩnh hằng trong kí ức không là toại nguyện. Thiếu một chút, nhớ một chút, đắm say một chút,... ắt đủ chất dinh dưỡng cho thơ Lê Văn Hiếu ngân nga duy trì. Đó là sự hàm ơn từ người thân từng gắn bó, từ vùng đất Cây Bông An Nhơn sinh ra, từ bước chân ngụ cư Lâm Hà Tây nguyên thổn thức:

     “... May mà ta làm người xa quê

      Nên quê hương trong ta cứ mỗi ngày mỗi lớn

      Hình bóng cũ mãi về, và yêu thương dậy sóng

      Ta nghe lòng mình ngân nga

      ...

      Thơ ta lành hiền như bụi như đất

      Như con cò vừa đến cạnh rìa ao

      Con ngựa chậm chân mấp mé sườn đồi

      Ngó lên đỉnh núi

      Thôi đành ngồi bệt xuống cỏ mà uống rượu

      Nghĩ tay mình đang giữ chặt trăng

                        (May mà ta chưa cưới em)

     Và trong cảm xúc: “Nghĩ tay mình đang giữ chặt trăng”, thì trăng đã là hình tượng thăng hoa. Em- tỏa sáng, em êm đềm, em ngọt ngào và lung linh tròn trịa. Và có em là có thơ (Đợi trăng, Ngồi vớt tuổi trăng lên, Và em mười sáu,...)*. Ánh trăng ngự trị bên dòng đời, mà dòng đời thì miếng cơm manh áo. Nhẫn nại cuốc cày cho đủ cái ăn cái mặc, che chắn đời mình đời thơ, lắm lúc gieo neo khốn khó. Có là sẻ chia, hay là đồng cảm: “Thương con ngựa oằn minh leo lên dốc Mẹ ơi/ Thương tiếng thét của chim trước mỗi hoàng hôn gọi bạn tình ra đi không về nữa/ Ta thương ta nhởn nhơ ngợi ca loài nhật nguyệt vô chung vô thủy/ Những vần thơ lạc rơi/ Ta thương con giun cần mẫn cày xới mảnh đất trong vườn ta/...”(Thương con giun giữa lòng thành phố)*.

      Trong Đánh đu sợi tóc, Lê Văn Hiếu bộc bạch phận người cấy cày vun xới làm đẹp thể chất khỏe khoắn bao nhiêu, thì đời sống tâm hồn thơ ca rất cần chăm chút nuôi dưỡng trân trọng bấy nhiêu. Nên cách lập luận song hành về quan niệm sống đã đủ thỏa mãn người thưởng thức thơ anh hay không. Khi: “Ta chợt nghĩ hai chữ hạnh phúc không chỉ mang trên cổ- ta đính nó lên đầu ngọn tóc để gió bay chơi./... / Và Trái- Tim- Thơ em ơi/ Là chiếc ví lưu giữ hình bóng em/ Nó sẽ không bao giờ rỗng- Không bao giờ rách thủng...”(Trái tim thơ và một định nghĩa khác)*. Thơ cứ vô tư và trong sáng, một góc chiếu cho tâm hồn thư giãn. Vậy thì, yêu thơ và đến với thơ, đến với ngôn ngữ thơ là vô hạn đất trời đầy phóng khoáng. Nhà thơ Lê Văn Hiếu đã đẩy ngôn ngữ hiện đại vào tứ thơ của mình theo từng chủ đề có được. Bởi chính hiện thực cuộc đời thi nhân là mảnh đất màu mỡ cho thơ sinh sôi và phát triển. Sự phóng khoáng ngôn ngữ đỉnh cao thăng hoa cảm xúc.
      Hành trình đi tìm cái đẹp ngôn ngữ thơ trong Đánh đu sợi tóc để thể hiện chủ đề cho thấy sự cần mẫn đánh đổi đời mình, đời thơ đầy gian nan mà vô cùng bí mật, đủ minh chứng và thuyết phục:“Để nhặt dấu chân trên đường em đi qua/ Ta chui nằm trong cỏ// Để cận kề hơn những chuyến bay đêm/ Ta giấu mình trong những đám mây// Để mơn man ngà ngọc trên vòm ngực em/ Ta nguyện làm hạt nước// Và, ta sẽ- đánh đu sợi tóc/ Để gần ý nghĩ em” (Đánh đu sợi tóc)*.

                            20.09.2023 / Nguyễn Thị Phụng

*Tên các bài thơ trong tập

Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2023

CHỈ LÀ CẤU TRÚC HÌNH THỨC, Tiểu luận của Nguyễn Thị Phụng

 

CHỈ LÀ CẤU TRÚC HÌNH THỨC (trích Lặng trong hương lúa, 2014)




         Dân gian đã từng cảm nhận chiếc áo không làm nên thầy tu, phải chăng hình thức chưa phải là nhân cách con người. Rồi tục ngữ cũng có câu “Người đẹp vì lụa” chỉ để ngợi ca hình thức. Không, tất cả muốn làm nên giá trị chân chính vẫn là “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” cho mọi đối tượng. Như thế thì thị hiếu thẩm mĩ thể hiện ra trong lúc nào. Nhu cầu cuộc sống đâu chỉ có ăn no mặc ấm chăm chút cho thể chất để bản năng con người tồn tại giữa thế gian này. Cái thiết yếu từ xưa đến nay con người tồn tại là giá trị tinh thần. Giá trị tinh thần ấy chính là văn hóa người Việt Nam mang đậm nét thuần phong mĩ tục làm nền tảng lâu dài và mãi mãi mai sau. Nói như thế để khẳng định hình thức chỉ là cấu trúc bên ngoài. Nhưng là một cấu trúc ở độ tin cậy cao. Sự tiếp nhận văn hóa thông qua nhiều con đường theo trình tự nhìn, nghe, cảm nhận đến nói, đọc, viết. Chẳng khác nào như sự lớn lên một đời người theo tháng năm. Con đường tiếp nhận văn bản dễ dàng nhất nói hay viết thông qua hình thức câu chữ tiếng Mẹ đẻ. Hình thức tuân theo trình tự sắp xếp từ ngữ tạo trật tự câu văn từ chủ thể đến hành động của chủ thể theo văn cảnh biểu đạt thêm tình thái, không gian, thời gian, mục đích, nhượng bộ, hay điều kiện giả thiết,… của sự vật mà chủ thể phát ngôn. Nó chẳng khác nào như người thợ may giỏi, nắm được kích thước đường may cơ bản phù hợp với vóc dáng từng người, lứa tuổi, còn mẫu thời trang, chất liệu, sắc màu hoa văn phải theo người sử dụng, bởi khách hàng là thượng đế. Tác phẩm văn chương muốn sống được và tồn tại cũng vậy, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một minh chứng. Hay xác nhận một cách rõ ràng hơn thì văn học cổ điển bao giờ cũng tân kì. Nói như vậy cũng có thể có một ít bảo thủ. Sự đồng nhất giữa cấu trúc hình thức và nội dung ý nghĩa mang tính phổ thông, minh bạch. Với tác phẩm văn chương- trừ văn xuôi, thì thơ đâu chỉ dừng lại ở ngữ nghĩa tự điển thứ nhất đơn thuần. Cách viết kiệm lời mà tứ thì sâu, đó là tầng nghĩa thứ hai, thứ ba ngự cái ẩn trong vỏ câu từ.



  Cấu trúc hình thức ở thơ ca dân gian luôn có vần vè cho người nghe dễ nhớ dễ thuộc như tục ngữ là từ kinh nghiệm thực tế cuộc sống “ăn có nhai, nói có nghĩ”, … thành ngữ thì dùng hình ảnh như làm mực thước vất vả gian lao “lên thác xuống ghềnh”,… ca dao là tiếng nói tình cảm, là câu hát có chương khúc nâng cao hơn theo thể loại truyền thống diễn ca sử dụng thể lục bát, thể song thất lục bát, lục bát biến thể,…

              Cấu trúc hình thức ở thơ ca trung đại lại ảnh hưởng một phần thơ Đường Trung quốc. Thể ngũ ngôn tứ tuyệt, thể thất ngôn tứ  tuyệt, thể thất ngôn bát cú như Muốn làm thằng cuội của Tản Đà, nhưng Tản Đà lại là gạch nối của thơ ca Trung đại và hiện đại (tác giả sử dụng cấu trúc thể thơ trung đại mà hồn thơ hiện đại), một phần sử dụng thể truyền thống như ca dao tiêu biển một số truyện nôm diễn ca hay truyện thơ như Truyện Kiều của Nguyễn Du, mà “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn…”
              Cấu trúc hình thức ở thơ ca hiện đại (thế kỉ XX) kế thừa thơ trung đại còn tồn tại, thơ tự do mà phong trào Thơ Mới những năm ba mươi cho đến nay còn duy trì và phát triển cơ bản là nhịp điệu của câu thơ. Tiêu biểu từ Tình già của Phan Khôi đến Nhớ Rừng của Thế Lữ,…
              Những năm 45 đến 75, cấu trúc thơ duy trì và phát triển của một số nhà thơ tên tuổi từ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên,… đến Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng,… và những nhà thơ trưởng thành trong tuyến lửa Trường Sơn có Phạm Tiến Duật, Dương Hương Li, Hữu Thỉnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lệ Thu,… 



             Đến những năm 1990, 2000 thì một số nhà thơ Việt chuộng lối thơ Tân Hình thức - New Formalism. Như bắt nguồn từ Pháp với từ thi phẩm Jean Ristat, Từ Khúc Dục Mùa Xuân Rảo Bước, đăng trên báo La Nouvelle Critique giữa 1977-1978, thể thơ thông dụng là Alexandrin, 12 chân (âm) và tiếng Pháp đa âm, cứ mỗi dòng 12 chân thì xuống hàng, bất chấp cú pháp và từ vựng. Còn ở Mĩ từ những năm 70, 80 thì thơ Tân Hình thức với cách vắt (ngắt) dòng tự nhiên (thơ không vần, nhịp điệu tự do, cứ đúng số chữ theo quy định của một bài có thể mỗi câu năm chữ, sáu, bảy, tám, chín, mười chữ tùy cảm hứng của người sáng tác, đủ mọi đề tài trong thế giới con người , thanh tao có, dung tục có, nhìn hình thức xuống dòng vẫn trọn ý cho một câu, ta biết đó là thơ Tân Hình thức) Mãi đến mười lăm năm sau, với tập thi tuyển Những Thiên Thần Nổi Loạn theo New Formalism của một số nhà thơ Mĩ đã thu hút số ít tác giả nhất là lớp trẻ ở Việt Nam mở ra cách lựa chọn cấu trúc câu chữ vô cùng hấp dẫn khả năng sáng tạo của họ. Như vậy từ đầu thế kỉ XXI đã có ít nhiều người đón nhận (khoảng 150 người). Chẳng hạn bài thơ thứ nhất trong cách kể và tả:
Từ những bước chân đi
           “Huế, Sàigòn, Hà Nội, Hai
                mươi năm xa vẫn còn xa ..”
(*)

tôi trở lại ba mươi sáu
phố phường Hà Nội mỗi ngày
thêm một cổ xưa – như cô
gái ngồi chồm hổm ở chợ
Đồng Xuân rao hàng lẫu cá
lẫu đồ biển, lẫu thập cẩm
mời anh ngồi xuống đây uống
bia Hà Nội, đặc sản quê
hương, ôi mấy mùa chinh chiến

Huế của tôi có “O” về
qua Cửa Thượng, cơm hến chiều
nay cay đắng trộn vào nhau
nghe ngậm ngùi câu hò mái
đẩy, xuôi ngược Hương Giang qua
cầu Trường Tiền, đêm lấp lánh
đèn xanh đèn đỏ, tôi tìm
“O” áo trắng đã mấy mùa

Sàigòn phố cà phê bụi
bặm, cao ốc xây dở dang
như chuyện tình, cô gái mặc
mini jupe làm nghề hớt
tóc ráy tai, khoe đùi trắng
và đôi mắt nhiều đêm mất
ngủ, xe taxi máy lạnh
và quán bia hơi, Sàigòn
ôi đã mấy mùa chinh chiến
“Huế, Sàigòn, Hà Nội hai
mươi năm xa vẫn còn xa…”

Phạm An Nhiên
SG 08082004
_________
(*)tcs

Ví dụ một bài thơ tân hình thức thứ hai trong cách suy luận:
Cái khôn thừa
Mặt đất có lắm người khôn tôi gặp
thuở con nít thời trai trẻ, gặp nhiều
hơn khi lớn, họ khôn nhiều rất nhiều.
Cái khôn như không thể đếm nhưng vẫn
có thể như bọn trẻ đếm viên bi,
nhiều muốn tràn khỏi túi đã ních chật
phồng căng tiền, người tình, chiếc xe hơi,
bài thơ, sự nghiệp rách. Khôn giành hết
về phần mình để làm gì không hiểu.
Tôi thấy họ giấu kĩ, đôi lúc cũng
xòe ra sẵn sàng đối phó hay ra
tay với ai không biết. Thỉnh thoảng tôi
cũng thèm khôn như họ, khôn để viết
lách hay bon chen nhưng khi ngồi trước
giấy trắng tôi quên khôn. Ồ khôn nhiều
mà làm gì, ôi cuộc đời để làm
gì chứ họ?
                  Inrasara
          Lối Tân Hình thức vẫn có cái riêng của từng câu chữ, nếu ta có thể chịu khó suy ngẫm từ trong một câu đến một đoạn thơ bốn câu là sự móc xích và luôn có ý nghĩa trong một cái tứ của nó. Ví dụ đoạn cuối bài Cái Khôn Thừa của Inrasara: “cũng thèm khôn như họ, khôn để viết/ lách hay bon chen nhưng khi ngồi trước/ giấy trắng tôi quên khôn. Ồ khôn nhiều/ mà làm gì, ôi cuộc đời để làm/ gì chứ họ?” Và dĩ nhiên, nếu trong cách làm thơ Đường khó về niêm luật gò bó số lượng câu chữ, thì thơ Tân Hình thức mở rộng câu chữ lại yêu cầu cao hơn đâu chỉ về cấu trúc mà còn về sự liên kết ý nghĩa nội dung trọn vẹn của mỗi câu. Và nếu như xin được mạn phép cách giả định dùng số từ “những” trong câu lách hay bon chen nhữngkhi ngồi trước” vừa xác định ý nhấn mạnh thói quen lặp lại của chủ thể, rồi khẳng định ngỡ như thể mụ mẫm bởi cái khôn thừa trước giấy trắng tôi quên khôn. Ồ khôn nhiều … Còn dùng từ “nhưng” của chính tác giả lách hay bon chen “nhưng khi ngồi trước” vẫn là dụng ý trong sự đối lập mạnh mẽ cái khôn thừa anh đã có, đã biết giữa vật chất cuốn hút đối lập với tâm hồn mãi miết của người cầm bút tạo nên những áng thơ văn cho hôm nay và thế hệ mai sau mà không hề vụ lợi cho riêng mình. Điều đó khẳng định lối Tân Hình thức luôn vô cùng độc đáo động não những ai say sưa gồng mình kiếm tìm con chữ thể hiện tứ thơ mà người sáng tác lựa chọn khác nào khi Kim Trọng cảm nhận tiếng đàn Thúy Kiều đã được Nguyễn Du miêu tả “Trong  như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa giữa vời,…”


            Chỉ ngại có điều ngoài “cái thanh cao” đi vào Tân Hình thức có lẽ không ai chối bỏ, còn ở một số bài“cái dung tục” lập đi lập lại nhiều lần quá thô thiển đã đành, còn trần trụi đến mức dị ứng, hay cách nói phản cảm ở một số bài thơ có thể chấp nhận được không?!... Tiếp nhận cấu trúc Tân Hình thức là điều nên làm để sáng tạo thơ ca cho hôm nay, nhưng ta không hề bảo thủ cái mới, không thể lái xe con đời mới chạy nhanh trên con đường đất lún sau cơn mưa được. Xây được cái nền đường vững chắc cũng chưa cho phép xe con kia chạy nhanh, mà phải thực hiện theo yêu cầu tốc độ quy định. Tân Hình thức thơ là hơi thở của thời đại công nghiệp, dễ bị choáng bị sốc với những người yếu thần kinh chỉ cần nhìn đoàn tàu lửa chạy trên đường sắt đã say sóng và nôn ngay (nguyên nhân của sự phản cảm là văn hóa Việt khó chấp nhận, nói như vậy không hề bảo thủ. Bởi ngôn ngữ thơ nói chung luôn khác với ngôn ngữ thường ngày, nó mang tính thẩm mĩ để nâng cao đời sống tâm hồn con người). Dẫu biết tác phẩm văn học đến với người đọc, người nghe đâu thể cùng lứa tuổi hay cùng trình độ nhận thức như nhau. Cấu trúc Thơ Mới gần trăm năm nay vẫn duy trì gìn giữ, thế thì cấu trúc Tân Hình thức đã có hơn ba mươi năm trên thế giới sao mà khó dung nạp, âu chỉ là thói quen!...



       Có lẽ, Tân Hình thức thơ ca chưa mấy thích nghi với người tiếp nhận, thì cách viết Hậu Hiện đại mở ra lối mới hơn là siêu hư cấu, một cấu trúc quá tự do như một trò chơi ngôn ngữ tung vẫy ngôn ngữ trên một bình diện rộng theo những lối thực hành mới riêng biệt theo phong cách cá nhân tự do lựa chọn, đôi khi lắp ráp câu từ, tranh ảnh tạo những phát ngôn mới riêng biệt để diễn đạt như thể thơ độc vận, thơ đa thanh, thơ phụ âm, thơ danh từ, thơ mẫu tự, thơ kí tự, thơ thị giác, thơ nhiếp ảnh, thơ hỗn hợp,…
Chẳng hạn một trò chơi chữ mới tách cụm từ trong câu thơ:
              Trăm năm trong cõi/  người ta.
              Trăm năm trong cõi (là chủ đề rồi mở rộng chủ đề theo mẫu tự A,B, C,…)
Ải. Ấp. Bãi biển. Bãi tha ma. Bè. Bến. Bến đò. Bến phà. Bến tâu. Bến xe. Bệnh viện. Biệt phòng. Biệt phủ. Biệt thự,… Cầu tiêu. Chánh điện. Chợ. Chợ chồm hổm. Chợ phiên,…
             Người ta: Á hậu. Bí thư. Bí thư chi bộ,.. Bộ trưởng. Binh nhì. Ca sĩ. Cảnh sát. Chị gánh nước,… Công an. Cụ già,… Dân. Dân biểu. Dân đen,… (Lối thơ danh từ của Nguyễn Tôn Hiệt, Nha Trang, sống ở Australia)
              Cấu trúc thơ hậu hiện đại là sử dụng liệt kê tự nhiên đảo trật tự từ trong câu: “Em mặc áo xanh/ Áo xanh em mặc/ …”của Tam Lê- Trần Nguyên Anh (có nét tương đồng đoạn thoại giữa hai nhân vật ông Giuốc-đanh muốn nhờ thầy triết viết dùm lá thư tình trong hài kịch Trưởng giả học làm sang của Môlie đã sử dụng từ thế kỉ XVII), thơ thị giác, thơ nhiếp ảnh, thơ hỗn hợp,… người đọc có thể chấp nhận, hoặc không thể chấp nhận, là tùy vào thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người. Người sáng tác theo lối hậu hiện đại vận dụng mọi từ ngữ chất liệu trong thế giới đời sống, kể cả miếng giẻ rách bỏ, một cái bao cao su thải ra,… họ cũng đều sử dụng, một quan niệm thể hiện sao cho thích nghi với thế giới của "hiện thực thậm phồn" đương đại, không phủ định cái cũ để hô hào cái mới. Bởi vì theo họ, mọi đề tài trong văn học hiện đại đã dùng rồi, nên họ tránh lặp lại lối truyền thống. Đó là kế thừa kết quả của John Barth từng tuyên bố rằng văn chương đã đến hồi cạn kiệt từ những năm 1967, mãi đến 1980, ông quan sát nền văn chương hậu hiện đại và tuyên bố rằng đó là "nền văn chương của sự phong dật". Nên cuối cùng dễ dàng sa vào hố hủy diệt. Và chính vì vậy mà Alan Kirby- Tiến sĩ văn học Anh có bài viết về Cái chết của Chủ nghĩa hậu hiện đại và xa hơn*


              Như vậy dù là Tân Hình thức có phải là nét mới hay kế thừa từ cách ngắt dòng của thơ ca Việt (như thơ năm chữ, sáu chữ, bảy chữ,…) hay như theo lời nhận xét của bà Angela Saunders một nhà bình luận thơ Mỹ đã từng cảm nhận về thơ Tân Hình Thức Việt, khi viết lời giới thiệu cho tuyển tập “Thơ Kể”: Nhịp điệu và âm thanh của một bài thơ cung cấp phương tiện truyền đạt và phương thức ghi nhớ thi ca. Những âm thanh trôi chảy trong một ngôn ngữ bản địa đều có nét đặc thù về mặt ngôn ngữ và không dễ dàng để dịch sang một ngôn ngữ khác...” Điều đó cũng khẳng định cấu trúc Tân Hình thức ra đời dễ dàng cho việc chuyển hệ song ngữ được. Còn Hậu Hiện đại phải chăng từ vỏ ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa xáo trộn nên cần nhìn lại trong quá trình sáng tác hay còn đang trên con đường thử nghiệm, vận dụng cho có hiệu quả cho mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Chính vì vậy nhà thơ không thể tách rời đối tượng của mình, thơ vẫn nằm trong nội hàm của văn hóa tinh thần, nên dù theo một cấu trúc hình thức nào phù hợp việc lựa chọn tứ thơ làm nên nghệ thuật chân chính đều được con người thưởng thức, trân trọng. Thơ là vẻ đẹp thuần túy đại diện cho tiếng nói lương tri cao quý như yêu, ghét rõ ràng ở từng cung bậc trầm bỗng khác nhau.
                                                                   Tuy Phước, 27.9.2013
_____
* Nhà văn và Tác phẩm, tr.161, số 1- 2013

Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2023

ĐẤT TRỜI TẠO RA THƠ.

 

                              ĐẤT TRỜI TẠO RA THƠ.

           Thể như nghịch lí của đất trời, mà quả thật Đất trời tạo ra thơ, bài thơ vũ trụ hoàn chỉnh tuyệt đối kể cả trong từng sát na. Chỉ có điều cái tứ thơ thuộc sở hữu thi nhân. Cách dụng từ cũng không thuộc ở người trẻ tuổi. Sự bố trí công bằng cho những ai yêu thích thưởng ngoạn. Thơ chỉ được trân trọng và sẻ chia. Tình chưa muộn(NXB. HNV 2023) là tập thơ thứ tư, trong tám tập sách với nhiều thể loại của Nam Thi đã xuất bản từ 2019 đến nay.

           Kể ra, tuổi ngoài thất thập của anh gọi là xưa nay hiếm. Cái hiếm cho một quan niệm của thơ cũng không trùng lặp: “Đất trời tạo ra thơ / Cuộc sống hoài thai thơ /Người nuôi dưỡng và thu hoạch / Cơ thể tạo ra máu / và máu nuôi cơ thể // và đất là nơi nước ở / Vạn vật sinh sôi nẩy nở / cho đất phủ xanh / cho sự sống đời đời”(Nụ hoa nở trên sa mạc)*. Viết đến đây người đọc chợt nghĩ về nhân sinh quan của vũ trụ. Không hề thêu dệt mà khẳng định đất trời bao dung con người, con người hòa trong vũ trụ luôn có sự tương thông nhau. Tình chưa muộn không là trẻ hóa mà chính là cốt cách bậc lão thơ Nam Thi.

          Tình chưa muộn là ẩn số khó giải theo phương trình toán học, mà trên mỗi tứ thơ không lặp lại khuôn mẫu cố định. Tự thân mỗi bài thơ như bức họa mưa nắng không làm nhòe câu chữ. Đó là cái hồn cốt văn chương ngoài thiên phú, thi nhân cần dụng nghĩa từ trí tuệ và cảm xúc, ưu ái cho thơ: “Ta mài dũa ngọc từ trong đá / Ta đánh thức người đẹp ngủ say trong rừng / Ta chắt chiu thơ / Như nụ hoa nở trên sa mạc khô cằn / Ta vắt cạn trái tim mình / Thơ hiện ra như phép lạ” (Nụ hoa nở trên sa mạc)*. Thơ tỏa hương sắc theo mùa, thơ còn là dưỡng khí chăm chút đời sống tâm hồn không dành riêng cho người sáng tác.

           Điểm sáng trong Tình chưa muộn là nỗi khát khao. Khát khao hướng thiện bừng cháy dẫu là giả định:

         Giá như tôi có thể âm thầm cầu nguyện

           Tình yêu của tôi thành phép mầu

           Dập tắt lửa chiến tranh

           Chôn vùi tham vọng cường quyền

           Lập lại bình yên cho người lành dưới thế

                                      (Que diêm cầu nguyện)*

         Khát khao hoan ca, khởi đầu mùa xuân, khởi đầu núi rừng sắc đỏ mặt trời, hương thơm cà phê bạt ngàn quyến rũ, vẻ đẹp sơn nữ dậy thì khỏe khoắn trong tầng nghĩa ẩn dụ đắm say : “Niê mặc áo hoàng hôn/ nhuộm màu ráng đỏ/ Nụ cười của lửa đại ngàn./ Tiếng hát suối khe/ Hiền hòa như dã quỳ/ Đằm thắm như ba zan/ Thơm như trà, cà phê/ Nồng nàn như rượu cần/ Anh chưa uống đã say túy lúy”( Chào năm mới Niê)*. Rồi theo mùa đọng lại vẻ đẹp hồi xuân cũng là dấu ấn khó phai: “Ngày em tròn 40. Mùa hạ có nấn ná rồi cũng đi qua. Lá còn xanh như tóc em còn mượt mà. Mặt trời còn rực rỡ trên màu hoa chuối. Và trái tim em còn ươm nồng lửa hạ.”(Ngày em tròn 40)*.

          Những sắc thái ráng đỏ, trời xanh, que diêm, màu hoa, men rượu, hương mùa,... thuộc gam màu phấn chấn cung cấp năng lượng trong Tình chưa muộn làm nên chất liệu ngữ cảnh riêng biệt của một Nam Thi. Nên bất kì trong bài thơ nào của anh dẫu là mùa hè vẫn ươm nồng lửa hạ dịu kì, dẫu là mùa đông đầy vơi giá lạnh, bày tỏ với đất rộng trời cao mà gửi gắm: “Có một khoảng trời xanh hiếm hoi mùa đông/ Để tôi gửi ước mơ lên đó/ Mong manh những vệt mây trắng/ Dịu dàng tia nắng ban mai (Một khoảng trời xanh mùa đông)*.

            Tia nắng ban mai trong khoảng trời xanh khơi nguồn cảm hứng cho Tình chưa muộn kết nối trái tim thi nhân gắn bó với đất trời, với gia đình người thân bạn bè, làng xóm và cộng đồng xã hội phong phú và đa dạng mà thể thơ tự do là thế mạnh của Nam Thi. Chân tình và sâu lắng từ những cuộc giao lưu thơ. Ngoài bút danh Nam Thi, lúc thì tán gẫu nhau nickname TXC(Tám Xóm Chùa), lúc thì bày tỏ tâm tình hồn nhiên khích lệ giamahazui, lúc thì thỏa thích chén thù chén tạc giamamatnet,... Nhưng có phải nỗi cô đơn thường ngày gặm nhấm tâm hồn thi nhân minh chứng cho một Lời nguyền của mây*: “Chia tay nhau không báo trước/ Em chỉ quẳng lại cho anh trận mưa/ dàn dụa con đường mùa đông/ ngập úng cánh đồng/ khi anh đưa em về / em mang theo hơi lạnh cao nguyên”.

            “Em” trong Tình chưa muộn là nhịp trái tim không nguôi bám víu nài nỉ thường ngày trong suốt chặng đường trai trẻ đến bây giờ càng thâm thúy hơn. Có lẽ không riêng gì Nam Thi, hầu hết những tác phẩm nghệ thuật nói chung, “Em” là đối tượng vô cùng thi vị trong cuộc đời này. Có lẽ cũng phải cảm ơn “Em” cho thi nhân chút tình làm chất xúc tác xóa đi muộn phiền tháng ngày trôi qua, ngỡ quá khứ nằm im cho kỉ niệm muốn quên, mà đâu thể nào quên tình đời lấm láp bụi trần, nhơ nhớp “Sài Gòn mùa mưa./ Mưa tầm tã/ nào thấy mưa ngâu/ Câu thơ hụt hẫng thẹn thùa”(Lũ quét)* cho một dấu trừ buồn, day dứt. Biết rằng bên cạnh mình bao nhiêu dấu cộng tinh túy cho câu thơ mượt mà, thấm đẫm yêu thương hàn gắn với hiện tại chút tâm tình: “Tôi lại có thêm một ngày/ để sống /để nhớ và để quên/ cuộc hành trình vất vả 75 năm/ với tình yêu thắp tuổi thanh xuân/ đến bây giờ còn sáng trong tim/ với chiến tranh và thù hận đã lụi tàn nhạt nhoà ký ức”(Cảm ơn bình minh)*.

            Nếu như lời cảm ơn bình minh thắp sáng tứ thơ Nam Thi vẫn chưa đủ. Cái đủ thường ngày là cảm ơn sự luân hồi trời đất xoay vần, thử thách để tôi luyện bản lĩnh tâm hồn dễ gì mai một. Trở lại với Đất trời tạo ra thơ cho con người tiếp nhận tận hưởng, làm nên tập Tình chưa muộn là chủ đề mượn ý phủ định để khẳng định sự thật thơ văn chân tình cho người xích lại, gắn bó và sẻ chia buồn vui trong cuộc đời này, thì giá trị đời sống tinh thần được nâng cao, đó chính là nền tảng văn học Việt xưa nay./.

                                                                          20.04.2023/ Nguyễn Thị Phụng.

.....

*Tên các bài thơ trong tập.

Thứ Tư, 5 tháng 7, 2023

SẮC HƯƠNG GÓP NHẶT NÊN ĐỜI

 

Đọc tập thơ Thức của Bạch Xuân Lộc

                         SẮC HƯƠNG GÓP NHẶT NÊN ĐỜI



               Sắc hương góp nhặt nên đời

               Mốt mai mây trắng ngang trời lênh đênh...

        Đó là cảm xúc đề từ khi đọc tập thơ Thức của Bạch Xuân Lộc.

        Khởi nguồn từ trái tim yêu làng chài, nơi anh cất tiếng khóc chào đời, trên chiếc nôi cánh võng đong đưa con sóng bên Bãi nồm Nhơn Lý. Quả thật, cái khát khao tĩnh lặng rất tự nhiên, nhưng sóng mãi ngàn năm yêu bờ, có chăng là sự nghịch lí. Với thi nhân, đến bao giờ chọn mặt gửi vàng. Cái vàng xuất phát từ chân thiện mĩ đã làm nên cốt cách một Bạch Xuân Lộc với 99 bài thơ đa thể loại, đa phong cách. Tập trung vẫn là câu chữ mộc mạc chân chất, cộng vào cảm xúc phóng khoáng con người sông nước ăn sóng nói gió, vật lộn với gian nan vất vả, khó khăn cực nhọc mà ngàn đời dân chài chịu đựng, đã nuôi dưỡng tâm hồn anh, cho ta trân quý tác giả trọng ý không cưỡng từ khi thi tứ bật lên, lúc cô đơn tìm về, trong lời Tự tình* tha thiết:

              “Muốn ngồi một chút với một tôi,

                Không gian yên tĩnh vắng lâu rồi,

                Vị cà phê đắng như màu đá,

                Hương thời gian và gió buông lơi...”

         Cô đơn bầu bạn, trêu ngươi, thách thức hành trình xuyên suốt cả tập thơ. Chỉ có hương thời gian và gió buông lơi tác động mạch cảm xúc sẻ chia theo mỗi chủ đề. Mở ra cái nhìn đầy thiện cảm: “Nơi kia cũng giữa đất trời/ Ở đó vẫn có những người mình yêu!”(Chạnh lòng)*. Những người mình yêu ắt hẳn sẽ hạnh phúc, nhưng hạnh phúc đong đầy vẫn chính là tác giả chân tình với người thân, họ hàng, bạn bè,... kể cả mọi vật xung quanh như (Phượng xứ Melb, Bạch đàn,...)* Nhất là tiết trời chuyển mùa từ thu sang đông khi khoảnh khắc (Đợi vàng chiếc lá, Sắc thu, Thu của Melbourne,...)* cho anh xao xuyến không nguôi:

              “Cuối thu gom nốt lá vàng,

              Vùi sâu nỗi nhớ đa đoan sông hồ.

              Suối thu róc rách đôi bờ,

              Sau lần tương hội con đò về đâu.

              Gieo neo chi trắng mái đầu?”

                                         (Bright, màu lá)*

         Có phải là gieo neo trắc trở, vất vả mới vượt qua được. Mà đúng là vậy. Gian nan đủ thử sức người. Bền bỉ, chịu đựng chính là lòng nhân. Ngẫm cho cùng thì đời người đâu đo bằng tuổi tác. Giá trị cuộc sống là sự dấn thân, từng trải, chiêm nghiệm luôn được nâng cao và lưu trữ thể như sự hiển nhiên vốn có trong đời:

           “Đò chiều... không ngóng không mong,

             Có qua thì chống chứ trông chờ gì…

             Đò chiều…buông bỏ sân si,

             Tham an thanh thản đường đi lối về”.

                                                   (Đò chiều)*

      Tình yêu trong thơ Bạch Xuân Lộc cũng bắt đầu từ những “đường đi lối về” khi mà những tứ thơ (Tâm an, Sáng thứ ba, Đi lễ chùa...)* có thể phối hợp nhịp nhàng lớn lên trong các mối quan hệ. Xuất phát từ tấm lòng kính yêu mẹ đơn côi tuổi già nhưng tràn đầy năng lượng sống, là chỗ dựa tinh thần cho con nơi phương trời xa tìm về với quê hương, nguồn cội không xa lắm (Từng bước tới lui, Chỉ là màu tóc mà thôi,...)* với lời nhắn nhủ:“Về đây em mộng sum vầy,/ Tình kia dẫu đã như mây vô thường./ Vũng Nồm/  nối kết yêu thương” (Vũng Nồm mùa hạ)*. Về với gia đình, dẫu lắm lúc biết thời gian nghiệt ngã vô cùng, một sự thật chấp nhận như khi: “Vậy đó nhớ Me cứ gọi về/ Mặc dù âm sắc bà chẳng nghe/ Nhưng thôi gọi để như nhắc nhớ/ Ký ức xa xưa lối đi về”(Mẹ nghe không rõ)*.

           Nhắc nhở ký ức xa xưa rồi gần lắm, nhớ nhung “Được có bữa trưa với Mẹ/ Cơm canh hạnh phúc thắm tình/ Xưa nay nhà mình vẫn thế.../ Chung tay chén vỡ chén lành”(Bữa trưa)*. Gìn giữ vẹn nguyên tấm lòng thơm thảo ngọt bùi đùm bọc: “Nhớ ngày giỗ Cha, cả nhà chung tay từ thiện.../ Cứu tế bà con trong mùa biển động khó khăn/... Giúp đỡ nhau cân gạo cọng rau/ Văn hóa cưu mang quý hóa bền lâu!...” (Nhân ngày giỗ cha)*. Trân quý biết bao nét đẹp văn hóa nghĩa cử phát sinh từ trong gia đình luôn được nhân rộng ra cộng đồng xã hội.

          Với Thức của Bạch Xuân Lộc là ngày về họp mặt những năm tháng trong nhà trường sư phạm thuở nào. Rồi nén bao cảm xúc hay tin: “Tiễn biệt Thầy phút cuối đời/ Có thương, yêu... lắm mấy lời phù du. / Chốn thế gian chút công phu/ Xây nhân dựng cách ngàn thu mãi còn”(Tiễn biệt thầy Trần Văn Mẫn). Mất và còn với Thức, đủ bừng tỉnh có khác gì buông và giữ. Nâng niu một chút xuân thì cái thuở còn Với xuân 2021*:

             Thời gian quấn quýt bên nhau

              Tuần trăng chưa đủ thương đau ít nhiều.

               Em ơi nắng gió đìu hiu

               Vàng lên mấy dãi mây chiều trôi nhanh

          Thức là bản hợp ca đồng điệu hướng về tịnh thiền, hoan hỉ: “Quy Nhơn đợi Ca-li./ Thương nhớ vô định kỳ/ Ca-li. chừng hội ngộ/ Hạnh phúc Quy Nhơn thì...// Vui niềm vui đoàn tụ/ Vơi đi điều nghĩ suy/ Sau đại dịch CoVid/ Tấm chân tình khắc ghi!”(Công nghệ yêu thương)*. Tìm về Thức với Bạch Xuân Lộc là nhận ra sự hiện hữu một Quy Nhơn lưu dấu tâm hồn đầy kỉ niệm khó quên: “Đêm Quy Nhơn khuya /vẫn còn đông người trên bãi/ Hiu hắt ngọn tây nam/ chưa đủ mát ven bờ/ Ta về đây bên em / tình yêu ấy chẳng hẹn thề/ Như gặp để gỡ / cái âm thầm giữ hồi ngăn cách!”(Gặp gỡ)*./.

                                              05.07.2023/ Nguyễn Thị Phụng

........

*Tên các bài thơ trong tập.

Thứ Ba, 6 tháng 6, 2023

TIỄN MỘT ĐỜI ĐÃ XANH, Nguyễn Thị Phụng

     TIỄN MỘT ĐỜI ĐÃ XANH



                    Đọc bài thơ Lá của Anh Phương, facebook 05.06.2018.

          Nếu như nghe trong ca khúc “Lá còn xanh như anh đang còn trẻ, lá trên cành như anh trong toàn dân... anh là lá trên cành ngại chi gió mưa, anh là trai phải ra chiến trận phen này...” đầy hào hứng thử thách gian lao của người trẻ tuổi. Thì trong thể lục bát của Anh Phương không là đối lập, mà chính là tiếng thơ làm nên một thi sĩ trên diễn đàn tự do facebook mở rộng cho nhiều bạn đọc thưởng thức:

             LÁ ...

        Chiều nay vuốt mặt lá vàng

         Là khi tiếng gió lầm than...dỗi chiều

         Em rồi góp nhặt bao nhiêu?

         Một mai lá thản nhiên liều cuộc rơi

         Đêm xao xác gió...lá ơi

         Nỗi buồn sẽ ruỗng xuống đời nỗi phai

         Một mai lá úa một mai

         Ai người quét lá tiễn dài vệt đi

         Đêm nghe tiếng lá thầm thì

         Gió nghiêng tai hóng tiếc vì thuở xanh

         Thương cho chiếc lá rời cành

         Chiều sao lắm nỗi... chòng chành lá bay...

                                                                    A,P

        Bài thơ được viết một mạch không phân đoạn. Nhưng cái tứ chặt chẽ trong cảm nhận tinh tế chút kiêu hãnh khôn nguôi, chút man mát luyến lưu, chút vấn vương là thế sao, biết rằng phải giã từ sau lần tái hợp là không thể tránh được.

        Nếu như tách được bốn câu đầu cho sự khẳng định nguyên nhân là tất yếu tác động lên bề mặt lá vàng, gió kia trăn trở rất khách quan là sự luân lưu khí quyển. Đành vậy. Đã chiều rồi kia. Có là hốt hoảng chút bâng khuâng thảng thốt: “Người ơi, trời sắp chiều rồi/ Nắng bâng khuâng rụng trên đồi hoàng lan”(Cao Hoàng Từ Đoan). Không. Chiều vẫn nên thơ, ấm áp. Mà đời xanh vốn có tự ban mai, thuở xuân thì đẹp đẽ. Cái từ vuốt, trong “vuốt mặt” rất hình tượng và đa nghĩa. Nhưng cũng chừng mực, từ tốn trân trọng biết bao:

        “Chiều nay vuốt mặt lá vàng

          Là khi tiếng gió lầm than... dỗi chiều

          Em rồi góp nhặt bao nhiêu?

          Một mai lá thản nhiên liều cuộc rơi

       Với cử chỉ “Chiều nay vuốt mặt lá vàng/  Là khi tiếng gió lầm than... dỗi chiều” có là lần cuối cùng của gió vuốt mặt chiếc lá vàng mà trách mình hay dỗi chiều đến vậy ư!... Và cơ hội cho lần nữa có còn được chăng!... Thì hai câu tiếp “Em rồi góp nhặt bao nhiêu?/ Một mai lá thản nhiên liều cuộc rơi”. “Em” lúc này trong thế bị động, câu phát vấn đặt ra có còn nói với chiếc lá, hay với em, hay chính thi nhân. Trong cách “góp nhặt” cho hay nhận. Giữa quyền lợi và nghĩa vụ với mức độ như thế nào. Thiên vị hay công bằng. Để rồi, đời lá đời em đối mặt với trần gian cho một lần xuất hiện có an yên và thanh thản hay không.

          Đến với hai khổ thơ tiếp theo:

              “Đêm xao xác gió... lá ơi

               Nỗi buồn sẽ ruỗng xuống đời nỗi phai

               Một mai lá úa một mai

               Ai người quét lá tiễn dài vệt đi

               Đêm nghe tiếng lá thầm thì

               Gió nghiêng tai hóng tiếc vì thuở xanh

               Thương cho chiếc lá rời cành

               Chiều sao lắm nỗi... chòng chành lá bay...

        Với cái kết đẹp trong nhịp thơ lục bát, vốn từ ngữ lay động tâm thức con người, hay là linh hồn cuộc sống rất cần được sẻ chia. Đêm đâu dễ gì tĩnh lặng. Bởi gió nói gì mà xao xác lá ơi. Tiếng lá thầm thì cùng gió. Trong cái rối loạn cảm xúc của đêm cũng qua, rồi gió sẽ đến hồi bình lặng trở lại, nỗi buồn cũng sẽ ruỗng xuống đời nỗi phai kia. Và tiếp nối không nguôi cho dòng đời bất biến. Bên cái vô thường cũng niên viễn hợp tan.

           Hình ảnh bất tận vô cùng phong phú cách diễn đạt. Bởi về mặt sinh học, lá là dưỡng khí, là bóng mát ban trưa, là mái nhà cánh chim bay về trú ngụ, là tỏa bóng râm hò hẹn chuyện trò. Và không còn là giả thuyết nhìn lá là biết sức mạnh của cây nữa. Đời lá, đời người sinh ra là cùng nhau bảo bọc nương tựa. Và cũng thấu hiểu, tiếc nuối chuỗi ngày dài thân thiện bên nhau, cho một chút lo xa của tác giả hay tình đời của ai đó người ơi: “Một mai lá úa một mai/ Ai người quét lá tiễn dài vệt đi”. /.

                                                   06.06.2023 / Nguyễn Thị Phụng

Thứ Ba, 16 tháng 5, 2023

TÍN NGƯỠNG BẬC TIỀN NHÂN -Góc nhìn về tên gọi Lễ Hội Chùa Bà- Cảng thị Nước Mặn, của Nguyễn Thị Phụng

                    TÍN NGƯỠNG BẬC TIỀN NHÂN

       Góc nhìn về tên gọi Lễ Hội Chùa Bà- Cảng thị Nước Mặn



       (Trong buổi Tọa đàm Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia về Lễ Hội Chùa Bà- Cảng thị Nước Mặn hôm thứ bảy, 13. 05. 2023 do Chi hội Văn nghệ Dân gian của Hội Văn học Nghệ thuật Bình Định tổ chức tại Quy Nhơn).


            Tín ngưỡng bậc tiền nhân là đời sống văn hóa tinh thần không thể thiếu đối với dân tộc ta.

        Nói đến Di tích Chùa Bà – Cảng thị Nước Mặn ở thôn An Hoà, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định được xem là một ngôi chùa có kiến trúc độc đáo và nổi tiếng linh thiêng. Còn là điểm đến của nhiều người dân và du khách thập phương khi xuân về, Tết đến.

       Chùa là nơi thờ Phật, thuộc tín ngưỡng tôn giáo. Nhưng Chùa Bà – Cảng thị Nước Mặn ở đây lại là nơi tín ngưỡng bậc tiền nhân.

        Thông tin ở một số tham luận trình bày trong buổi tọa đàm thì vào khoảng thế kỷ XVI, XVII, nhiều người Hoa di cư đến Nước Mặn. Họ không những lập nên phố xá buôn bán sầm uất mà còn mang theo tín ngưỡng của mình, điển hình là thờ Quan Thánh và Thiên Hậu. Chùa Bà được dựng lên vào giai đoạn này. Từ giữa thế kỷ XVIII trở về sau, biển lùi ra xa, tàu thuyền lớn không vào cảng thị Nước Mặn, cảng thị này suy tàn dần.

       Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều di tích còn lại của cảng thị bị xóa sạch. Chính quyền địa phương tu bổ lại chùa Bà - miếu thờ duy nhất còn lại ở vùng trung tâm cảng thị Nước Mặn cho đến ngày nay.

       Chùa Bà có kiến trúc độc đáo theo kiểu chữ Nhất. Thiết kế 3 gian. Gian chính chùa Bà thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, tượng bằng gỗ sơn son thếp vàng, tạc trong tư thế ngồi, mặc triều phục, chân đi hài mũi cong, khuôn mặt bầu, phúc hậu, trầm tư. Hai bên có 2 tượng đứng là 2 vị Thiên Nhĩ và Thiên Nhãn dưới gầm bàn thờ bày 2 tượng thần Hổ nằm, tư thế khác nhau. Phía trên gian chính là bức hoành phi đề 4 chữ “Hộ quốc tý dân” (hộ nước giúp dân) do triều Nguyễn ban tặng. Bàn thờ bên trái thờ Thần Hoàng làng; Bên phải là bàn thờ bà Thai Sanh Thánh Mẫu.

        Lễ hội Chùa Bà- Cảng thị Nước Mặn được người dân tiếp nối gìn giữ qua rất nhiều đời.

        Phần Lễ: đậm văn hóa tín ngưỡng dân gian như: nghinh thần, rước sắc, rước biểu tượng ngư - tiều - canh - mục.

        Phần Hội: đậm văn hóa sinh hoạt dân gian với các hội thi đấu bóng, bài chòi, trò chơi dân gian như nhảy bao, kéo co, đi cà kheo,...

        Người dân Nước Mặn, ở An Hòa xã Phước Quang xem lễ hội này là cái Tết thứ 2 trong năm (sau Tết Nguyên đán).

        Lễ hội Chùa Bà - Cảng thị Nước Mặn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào 4/8/2022. Đây là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia thứ tư của tỉnh Bình Định được ghi danh, tiếp sau Võ cổ truyền Bình Định, Hát bội Bình Định và Nghệ thuật Bài chòi Bình Định.

        Vậy thì, trở lại với tên gọi Chùa, trong Chùa Bà có phù hợp với tín ngưỡng tri ân bậc tiền bối, những người đã lần đầu đặt chân đến ở nơi đây, mở ra cuộc giao thương làm nên Cảng thị Nước Mặn ngày ấy. Hay là sự tôn vinh văn hóa tinh thần trong tín ngưỡng của người Việt có nói quá lắm không. Nên trong cách gọi từ ngôi miếu nơi thờ cúng còn sót lại, mà nhân dân nơi đây ưu ái xây dựng lại sao không gọi là ngôi Đền thờ Bà – Thánh mẫu, Cảng thị Nước Mặn gần gũi với văn hóa tinh thần Việt của mấy nghìn năm để lại. Để không trùng lặp và nhầm lẫn với tên Chùa trong tín ngưỡng Phật giáo.

                                                              16.05.2023/ Nguyễn Thị Phụng

 

 

Thứ Năm, 13 tháng 10, 2022

BÊN CẠNH NHỮNG BỘN BỀ.(Đọc Góc phố ba người của Nguyễn Mỹ Nữ) Nguyễn Thị Phụng

 BÊN CẠNH NHỮNG BỘN BỀ.

         (Đọc Góc phố ba người, tập truyện ngắn của Nguyễn Mỹ Nữ, NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2022).

         Bằng sự tử tế trong cuộc sống thường ngày và khiêm tốn là tính cách đáng trân trọng khi đọc văn Nguyễn Mỹ Nữ. Chị không chỉ là Nhà văn viết cho thiếu niên của Nhà xuất bản Kim Đồng, là cây bút tản văn hấp dẫn. Và dẫu Bên cạnh những bộn bề với những vướng mắc Covid-19 cùng di chứng để lại, Nhà văn vẫn kịp thời ra mắt bạn đọc Góc phố ba người (NXB Tổng hợp Thp. HCM- 2022) là tập truyện ngắn thứ tư trong tám tập sách đã xuất bản. Ấn tượng nhất của bạn đọc đối với Nguyễn Mỹ Nữ đâu chỉ là giải thưởng vinh danh như ở các cuộc thi truyện ngắn tuần báo Văn nghệ(1998-2000), tạp chí Văn nghệ Quân đội(2001-2002 và 2005-2006), hay Giải thưởng Đào Tấn- Xuân Diệu lần III, IV, V. Không là liệt kê, sức hấp dẫn ở 15 truyện ngắn trong Góc phố ba người với phương thức biểu đạt tự sự có cả lập luận chân tình pha chút dí dỏm, lại ấm áp yêu thương chủ yếu miêu tả sự tiếp xúc, va chạm giữa con người và xã hội rất cô đọng và súc tích, độ nén trong khoảnh khắc kể cả tựa đề hấp dẫn chỉ từ một tiếng: Hát, My, Thở, Ám, Siêng, Vỡ, Diễn;  từ hai tiếng: Tiền bay, Vui vầy,... đã làm nên một Nguyễn Mỹ Nữ không thể nhẫn nha khi mà cuộc mưu sinh hối hả.

         Góc phố ba người là sự thẩm thấu tính cách phụ nữ biết sẻ chia và trân trọng. Đó là cái tình vốn có ở tấm lòng phụ nữ. Nếu như trong tận cùng ngược lại dẫu gian nan dễ làm con người so đo tính toán, thì cái chừng mực điềm tĩnh được phát huy, không ồn ào căng thẳng, hướng đến sự lựa chọn tế nhị đầy bất ngờ trong Khẽ và thầm* khá trăn trở nội tâm ở nhân vật “tôi”- người phụ nữ không thể sống chung cùng với chồng thường ngày, nhưng vẫn trong vai là vợ là chồng bên nhau những ngày bảo hỉ của các con, sum vầy với các cháu, thời gian li thân đủ nếm trải cô đơn tâm hồn ngỡ đã tìm ra sự đồng điệu cảm xúc khi đọc lại dòng tin nhắn từ nhân vật Luân ở cuối truyện: “Anh có ý nghĩ em chính là cơ may cuối của đời mình. Và hẳn em cũng thế! Chúng ta có nhau vào khoảng này vẫn tốt hơn... Trễ đâu hẳn là muộn. Và giá mà anh có thể? Cuốn phăng những ý nghĩ em lay bay, những lười lĩnh em những chênh chao em những đắn đo, những toan tính ở em...Cuốn, theo cách của anh ấy mà”. Phần nào khẳng định “Tôi trở về. Bỏ lại một biển đêm trăng non. Mênh mang và bàng bạc. Và khuya đó với lòng thật bình yên.” cho một cái kết rất khẽ và thầm. Còn Những cuộc hẹn cuối ngày* dẫu gì cũng là mối quan hệ vợ chồng thời trẻ và tuổi già lắm lúc vướng mắc cũng sẵn lòng tha thứ cho nhau, nhưng cách chọn sống độc lập không ràng buộc đôi khi là sở hữu của tự do. Ở truyện My*- nhân vật trẻ trung, năng động, không thích những gò bó, nhưng cái kết không thể duy trì, chọn cho mình mái ấm yêu thương.

        Không gian gia đình là mối quan hệ ràng buộc phụ nữ trong Góc phố ba người. Gia đình là mấu chốt của yêu thương, là sẻ chia, nhưng khi những câu mâu trong sinh hoạt thường ngày của gia đình nhà chồng đông anh em khó có sự thông cảm và bao dung, người phụ nữ- thân phận là dâu tìm đến tiếng hát mọi lúc mọi nơi là cách vượt thoát gò bó tù túng cảm xúc như chị Nhung trong Hát*. Còn kết cấu Rượu và Sương* là những dằn vặt của gã được mở ra cách ẩn dụ cướp công của loài chim cánh cụt lười xây tổ cho riêng mình. Nhưng hạnh phúc chẳng thể đong đầy trong tháng ngày tiếp nối khi vợ gã ấm ức nhận ra cái đớn hèn nhu nhược ấy: “Cả đời tui đã thúi hoắc, còn có thêm thằng chồng hờ thúi hơn nữa, chịu gì nổi? Thà sớm bửng cha lo nốc giùm mấy ngụm rượu mới, cho cái râu nó thơm. Cái miệng cha không thơm nổi đời cha sao thơm?...”. Người đọc hẳn sẽ hả hê với ý tưởng: “...Người ta căm thù rượu lại phải ập vào rượu và người ta thích rượu và người ta thích cả sương. Nhưng say sương thử hỏi ai đã từng.” Cả nỗi đau dằn vặt đầy ám ảnh: “Ông đánh cắp của người nên đâu có giữ được cho mình. Đúng không?” có là bài học nhớ đời không riêng gì gã.

         Những cảm xúc ban đầu có là câu trả lời cho tình yêu kết nối? Đã có trong Góc phố ba người với cốt truyện Siêng* giữa sự đối lập mối quan hệ vồ vập chóng vánh giữa hai nhân vật “chị và anh” cuối cùng nhận ra thực tế: “Nhưng anh lười, chị lười khiến mọi thứ nơi đây ngày một tồi tệ thêm, nên, tan rã ấy là điều tất nhiên. Thôi, trả lại anh người lười ngay đến cả nụ cười với vợ. Thôi, thu về chị người phụ nữ lười ngay cả đến việc nấu cơm cho chồng”, đến hồi tháo gỡ ràng buộc để không làm tổn thương trái tim cho nhau. Khi đọc Vỡ* tìm ra cái kết hôn nhân nên duyên chồng vợ khởi đầu từ sự hiếu sắc, mà đàn ông mấy ai yêu đạo đức như yêu sắc đẹp thì họ thành thánh tất cả. Thánh giữa đời thường quá hiếm, bởi ở gã từ lúc đầu “phất phơ và lông bông sống cho qua ngày” và còn “Gã rất mê đàn hát và vợ gã, là hoàn toàn ngược lại” nhưng vòng đời níu kéo chung mái nhà, chung con cháu, chung số phận. 

         Ngổn ngang thanh âm vơi đầy vọng lại là tiêu đề trong Góc phố ba người. Sẽ dễ dàng nhận ra thanh âm giữa bộn bề góc phố không trùng lặp. Từ truyện ngắn Ám* đầy câu mâu, cả quyết ngỡ như mình đang bị xúc phạm, bởi bản tính con người tự trọng như cô Bốn đầy bảo thủ.  Với Thở*, khởi đầu từ tiếng guốc vỉa hè của em bé trước nhà đối diện luôn là sự cô lập, tách biệt, sự bất an, mà trong nhà người mẹ hành nghề mại dâm, không gian góc phố ngột ngạt. Cái hay ở Diễn*, chỉ là khoảnh khắc đường phố cho mọi người tham gia giao thông, người gây ra tai nạn từ lúc đầu “Biết mình sai nhưng vẫn lớn giọng trấn áp, đè bẹp người khác. Mà không xong và bị lật tẩy thì tức khắc, đóng vai khờ khạo tội tình...”. Cảm nhận ở nhân vật “tôi” đủ khẳng định không tìm đâu xa trên sân khấu, ngay thực tế đường phố cũng diễn quá sinh động kia mà.

       Trong bộn bề vẫn tìm về nhịp thở sinh sôi. Nơi Góc phố ba người* là truyện kể về ba cô gái nông trường, trong đó Hạnh là một trong những phạm nhân sau khi mãn hạn tù, sẻ chia: “Em sợ ra đời không kiềm giữ nổi mình rồi hoang hư lại”. Nơi đây, với Hạnh đúng nghĩa với cái tên của em, xốc xáo nhanh nhẹn mọi việc, hòa nhã khéo léo tốt bụng nên tất cả yêu thương sẻ chia. Nhưng sự đời không như ước mơ đẹp của “tôi”về Hạnh, Hạnh đã phải là người mẹ đơn thân sinh con ngay trong đêm giao thừa và trú ngụ bên mái hiên nhà trong giá rét không người thân thiết. Mà được tình bạn cưu mang nhau lúc cơ nhỡ này. Vẻ đẹp “tôi”- giữa những người phụ nữ trong Dăm phía đời, gác lại*, nơi phương trời xa và cuộc trở về những triền miên xáo trộn, bề bộn lo âu. Nhưng tìm ra cho mình được góc nhỏ đời sống tâm hồn: “Lạ thật! Bởi đã quyết lòng “thôi thì gác lại...” vậy mà trái tim mình vẫn đập rộn những nhịp vui, khi dõi theo một sắc màu lấp lánh, một bóng nắng lung linh nơi khu vườn nhà cùng với mọt người đàn ông có tên là Kurt”. Riêng một không gian bao trùm cuộc gặp gỡ của các cựu thanh niên xung phong trong Vui vầy*đầy kỉ niệm gắn bó của thời trai trẻ nơi từng xa núi cao, giờ xa xôi lắm.

        Góc phố ba người với bài học nhân sinh bất ngờ sâu lắng. Nếu như ở truyện ngắn Tiền bay* khi cuộc đời không cho mình sự lựa chọn nghề nghiệp như: cùng nghề đan thúng, túng nghề đan nia nữa. Cái cung và cái cầu luôn song hành cho nghề mua bán chim trời đầy vật lộn. Một cái kết truyện đầy ám ảnh trong tuyệt vọng gió cuốn cả người và giỏ nhốt chim rơi xuống cầu, phút cuối cùng được vớt lên bờ, người đàn ông nhanh tay mở cánh cửa lồng cho chim bay về trời. Thì đến với Điều may mắn cuối cùng* lại là sự tự giác lương tâm, luôn bảo vệ sức khỏe con người nên đã hỏa táng con Nu, vật nuôi trong nhà, vì không muốn tiếp tay cho gian tham có cơ hội đào lên xẻ thịt bán cho người tiêu dùng.

       Truyện ngắn của Nguyễn Mỹ Nữ trong Góc phố ba người , nhưng không còn là của riêng ba người mà của chung bạn đọc. Kết cấu mỗi truyện cũng là thước phim đời người trong mỗi cảnh. Nơi ấy chứa bao nhiêu là tình người luôn được cân bằng trong vun đắp trong ân cần mách bảo. Nơi ấy còn là thông điệp về lương tri con người, hãy vì con người sống tử tế bên nhau. Nơi ấy, những dối gian sẽ không còn lặp lại. Nơi ấy là bầu trời phóng khoáng, tâm hồn luôn cởi mở và kết nối yêu thương./.

......

*Tên các tr.ngắn trong tập.                               13.06.2022 / Nguyễn Thị Phụng