CHƯNG CẤT HƯƠNG ĐỜI
(Đọc tập thơ Nụ hồng cho Trái đất của Võ Ngọc Thọ, NXB HNV-2020)
Khái niệm “Người ta là hoa đất” thuộc về
tục ngữ xưa nay. Thì tập thơ Nụ hồng cho
Trái đất của Võ Ngọc Thọ đã minh chứng phần nào cốt lõi hương hoa được
chưng cất hàng mấy năm ròng mới có được. Và đây là tập thứ năm Võ Ngọc Thọ đã
xuất bản, mỗi bài thơ là cảm thức về con người và thời gian không còn xa lạ,
trái lại khắng khít thể như hình với bóng, hơn nữa là trách nhiệm thuộc về nhau
rồi.
Nụ hồng
cho Trái đất là người mẹ bao dung muôn đời bất tử. Chẳng còn là giả
dụ thời gian vòng quay bốn mùa, lại chỉ dành riêng một ngày nói về thiên nhiên
cho Trái đất, không phải thiệt thòi mà nhắc nhở sẻ chia tình người bên nhau thắm
thiết, ý thức cộng đồng bảo vệ hành tinh xanh. Và nếu như Nhà thơ Định Hải xác
nhận “Trái đất này là của chúng mình”
thì Nhạc sĩ Trương Quang Lục dẫn dắt tuổi thơ: “Quả bóng xanh bay giữa trời xanh” cho các em yêu màu hoa, màu da sắc
tộc và bình đẳng con người. Thì riêng Võ Ngọc Thọ dành Nụ hồng cho Trái đất(Viết nhân ngày Trái đất)*về dấu ấn khó quên từ
những thiên tai: hạn hán, lũ lụt, sóng thần,... đến những trận động đất kinh
hoàng chỉ trong khoảnh khắc sáu mươi giây: “Sau
hàng trăm năm ngủ quên/ Trái đất cựa mình/.../Haiti tan hoang đổ nát/ những xác
người chết nằm la liệt/ những người may mắn sống sót vất vưởng đầy đường/ những
gương mặt thất thần ngơ ngác/.../ những phận người thê lương” (Trái đất sau
hàng trăm năm ngủ quên)*. Cái bất chợt quặn lòng, cái bể khổ trước mắt không
riêng phận người thê lương, đã có Nụ hồng
cho Trái đất san sẻ.
Thiết thực nhất, gần gũi nhất là tình
yêu bắt nguồn từ Âm vang tiếng sóng*:
“Đi dọc vạt nắng chiều hôm/ nghe trong biển
mặn hương thơm đất trời/ người đi ngược gió tơi bời/ âm vang tiếng sóng vọng lời
nước non”. Và nếu như Những tượng đài*(tr.
58) là sự lựa chọn về nhận thức: giữa hi sinh, an nhiên và bình thản- giữa tận
hưởng, ngụy trang và dối trá thì lời nước non nhắn nhủ theo nhịp sống, nơi con
đường thường ngày đi về thôi thúc tấm lòng người mẹ đẹp tựa một bài thơ, một vầng
trăng tròn sáng tỏ, lung linh tình người mẹ hiến tạng con gái chết não ở bệnh
viện Chợ Rẫy đã ngộ ra: “Xác thân rồi cát
bụi/ nhưng còn đó:/ trái tim/ lá gan/ và hai ... quả thận/ Người Mẹ gần như chết
ngất/ khi chần chừ.../ hiến tạng của con// Con thân yêu/ Mẹ muốn thấy trái tim
con còn đập/ quả thận con còn lọc/ lá gan con còn được tưới máu tươi/ chỉ mình
con cứu sống bốn người// Con thân yêu/ con vẫn ở cõi người/ ở trong lòng người/
Mẹ xin lỗi/ con ơi!”(Tấm lòng người mẹ*). Phải chăng ta có thêm tượng đài
người Mẹ được nhà thơ trân trọng viết hoa là vẻ đẹp tư duy khoa học tiến bộ ấm
áp nhân từ. Rồi đến cả Chị quét rác* hằng
đêm làm sạch đường phố, mong mỏi gởi vào “giữ
sạch lề đẹp lối em nghe”(Chị lao công- Tố Hữu) thế mà “lề” không giữ “Kẻ nát rượu lái xe/ đã không cho chị được sống”.
Và chị đã hóa thân: “Chị đã biến thành con sóng/.../ Chị biến
thành ngọn gió/.../ Chị biến thành ngọn lửa/ sưởi ấm con...”. Những người
bình dị đời thường mà cao cả đã đi vào trang thơ Võ Ngọc Thọ, đó là điểm nhấn
trong Nụ hồng cho Trái đất.
Và nếu như điểm nhấn cho tập thơ Võ Ngọc Thọ
bắt nguồn từ tình yêu đất nước: “Tôi
nghe tiếng em bé/ Bập bẹ chữ Việt Nam/.../ Tôi nghe tiếng ngọn sóng/ Nghẹn lồng
ngực biển đông/.../ Tôi nghe tiếng sông núi/ Vọng lời hịch cha ông/...”(Tôi
nghe)* thì hình ảnh Cây bàng chứng nhân*(tr.34),
cho đến Hương quê*(tr.50) Nhơn Lý được
nhắc đến. Nhưng cũng từ ấy thì Chiếc áo ấm
của ba tôi*(tr.54) khắc ghi dấu mốc thời gian: “Chiếc áo theo ông Cụ từ ngày đi tập kết/ ra Bắc vào Nam/ đằng đẵng hơn
hai mươi năm/ chở che ông bớt rét lúc xa nhà/ ấp ủ trong tim bao hoài bão...”
cho nguôi ngoai nỗi nhớ, mà nén niềm hân hoan. Võ Ngọc Thọ- người con mượn hình
ảnh chiếc áo nhớ ngày đi tập kết của cha mình là lời nhắc nhở công ơn để đến
ngày trở về bao thảng thốt:
“Ngày đất nước thống nhất
ông trở về thăm quê
chị Hai tôi không còn nữa
ông khóc
sao con không nán đợi ba về!
ông trở về thăm quê
chị Hai tôi không còn nữa
ông khóc
sao con không nán đợi ba về!
Ngày đất nước thống nhất
ông trở về thăm quê
chú Chín đã hi sinh trong hang Núi Bà
xương thịt tan vào đá...”
ông trở về thăm quê
chú Chín đã hi sinh trong hang Núi Bà
xương thịt tan vào đá...”
Chiếc áo ấm của ba tôi và thời gian của
năm tháng khắc khoải đâu riêng mỗi gia đình, mà trở thành kỉ vật chung cho bao
thế hệ tiếp nối duy trì bảo vệ quê hương: “Ông
trao chiếc áo cho tôi làm kỉ niệm/.../ Tôi lại trao chiếc áo này cho các con
tôi/ như trao một báu vật/...”. Với người cha, là niềm tự hào. Riêng với
con gái lại là nỗi nhớ khôn nguôi khi đọc Hoa
cắm cho con*( tr.79), không khỏi bùi ngùi số phận ngắn ngủi tuổi xuân chưa
kịp cống hiến, bởi thường ngày “hồn con lạc
bến chơi vơi”. Thương và nhớ thường trực trong cảm xúc thi nhân từ : Một đóa vô thường* cho đến Những đóa tình* về một sự thật thời
gian: “Muốn hay không/ Ta vẫn thêm tuổi nữa/
Khi xuân về gõ cửa trái tim// Hôm nao tóc xanh/ Tràn nhựa sống/ Nay bạc mái đầu/
Bạc những khát khao” nhưng từ ấy bật ra:
“Kìa mai vàng đang nở
Những đóa tình tin yêu”
Những đóa tình tin yêu”
Những đóa tình kịp bung nở tỏa hương
trong Nụ hồng cho Trái đất chính là sứ
mệnh thi ca, tập trung chủ đề viết về đất nước và con người nhân hậu làm nên
mùa xuân Với đời* (tr.94). Bởi nơi đó
có Khung cửa*(tr.95) bao dung đón chờ,
sẵn lòng mở ra: “Có một khung cửa/ đi về
mỗi ngày/đều đều quen thuộc/ khung cửa thời gian/.../ khung cửa tâm hồn// .../
khung cửa tự do//.../ khung cửa riêng mình/...khung cửa tình yêu”cô đúc, lắng
đọng. Nụ hồng cho Trái đất giàu suy
ngẫm về tâm hồn đồng điệu, một bức tranh hiện thực đầy: “Sống động và thú vị/ Với những/ Con người/ Cây cỏ/ Hoa trái/ Đôi lứa
yêu nhau...”(Quên). “Quên”* là khẳng định cái nhớ, việc phải làm tựa một
danh ngôn. Hãy dành Nụ hồng cho Trái đất như
dành môi trường sống cho con người, như tự bảo vệ chính mình các bạn ạ./.
10.07.2020/ Nguyễn Thị Phụng
___________
*Tên các bài thơ trong tập.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét