Thứ Ba, 17 tháng 11, 2020

LẶNG TRONG HƯƠNG LÚA- Nguyễn Thị Phụng

 LẶNG TRONG HƯƠNG LÚA





        (Đọc trường ca “Phù sa trên tay” củaĐông Nguyên)
        “Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân”(Sóng Hồng). Nhưng từ trong cuộc sống quần chúng nhân dân, của lịch sử xã hội đã là nơi dự trữ tư liệu, ấp ủ cho tứ thơ cất cánh tỏa hương. Đọc một bài thơ ngắn nhất như hai câu lục bát Việt Nam, dài hơn chút là ba câu thơ Haiku Nhật Bản, hay tứ tuyệt Đường thi,… cho đến những bài thơ dài hàng trăm câu như Trường ca Phù sa trên tay của Đông Nguyên, (NXB Hội Nhà văn, 2012) theo cấu trúc nội tại đã làm nên tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Và nói đến Trường ca luôn nghĩ ngay đề tài có nội dung ý nghĩa rộng lớn mà người viết đạt đến sự thẩm thấu tinh tế, đó có thể là vẻ đẹp được chắt lọc của tấm lòng nhân từ, của một hồn thơ tài năng bậc thầy nhất đất nước như Nguyễn Du, hay là sự nhạy bén của tác giả khi cảm thụ tiếp nhận văn chương một cách khách quan.


          Viết trường ca Phù sa trên tay, Đông Nguyên mạnh dạn chọn thể lục bát truyền thống để truyền tải cảm xúc quả là anh tự khép mình vào gông. Bởi khuôn khổ lục bát vừa gò bó lại vừa khắt khe, rất dễ sa vào lối diễn ca vẫn có một số “thi sĩ” thường vấp phải. Nhưng với Đông Nguyên vượt lên được tầng cao tứ thơ đã lựa chọn. Với hai mươi bảy tiểu đoạn có năm trăm linh bốn câu lục bát cùng một chủ đề, được nhân cách hóa thành Người. Để rồi “Người thơ”  đó phải chịu bao dằn vặt, tủi hờn trong cuộc sống của mình. Đoạn tuyệt với một quá khứ bên kia  mặt trời là hoàng hôn, khói sóng. Giữa quan san người lên ngựa kẻ chia bào của miền đất thiên đô mệnh danh là hoàng triều, cương thổ để khẳng định “Người lục bát  ấy” đã có mặt tại Hà Tĩnh Việt Nam(Quê hương Nguyễn Du).
            “Theo về dựng quán văn chương
            Cỏ hoa Hà Tĩnh ngát hương bốn mùa…”
       
Rồi làm Người qua sông
             “Bềnh bồng tám mặt là sông
              Mượn câu  lục bát mênh mông làm đò…”
         Cũng rất dễ hiểu “Người lục bát” kia cũng là tâm trạng của tác giả, người trong cuộc đang cần sẻ chia:
              “Mười lăm năm Thúy Kiều ơi
               Còn ai bấm phím so lời nữa đây
               Khóc than do bởi phận này
               Lam Kiều xưa dựng trời nay cam đành

          Đâu dễ dàng “Lam Kiều xưa dựng trời nay cam đành” như Nguyễn Du không. Chính cái nguyên nhân của “Ba trăm năm ấy về sau/ Một dây tơ một rừng lau trắng bờ / Một phần ba vạn câu thơ/ Ngập trong nước mắt từng giờ đầy vơi” với đại thi hào Nguyễn Du, người từng xót xa thân phận mình đã chắp cánh bung nở cho thi sĩ: “Theo về dựng quán văn chương/ Cỏ hoa Hà Tĩnh ngát hương bốn mùa/ Ra đồng đất thấm sao Rua/ Mạ non lục bát gió lùa chân quê”(Lục bát về Nghi Xuân). Và niềm vui đong đầy trong cảm xúc phấn chấn:
              “Tứ thơ phong vận tài hoa
               Xin trải ra gió xin nhòa vào mây
               Được vào giấc ngủ cho say
               Vành môi em bé lại đầy môi thơm

                                              (Lục bát về Nghi Xuân)
           Trong thơ là nguồn cảm xúc chuẩn mực “Sẵn câu lục bát ru êm/ Đừng trôi theo nhịp sông đêm muộn về”. Cái lí giải nhẹ nhàng nhưng không kém phần thâm thúy:
               “ Cho đời nhẹ tựa khói vương
                 Cờ hoa lau dậy một phương trắng ngần
                 Mắt vừa chớp mộng phù vân
                 Tay vừa xóa hết bần thần nỗi đau”

                                                   (Làm người qua sông)
             Đẹp hơn là cách gợi tả so sánh “Mắt nào huyền thoại như tranh/ Hồn nào sương khói long lanh Tây Hồ” vô cùng quyến rủ, như thôi miên sao có thể dứt, thờ ơ, nhà thơ thố lộ: “Bến chiều không đáy hình như/ Mái dầm khuấy nước lao lư sóng đùa”(Làm người qua sông). Từ giã bến sông, những bước chân âm thầm Lên đồi khấn nguyện lòng thành giữa đất trời thanh vắng:
                   “Lục bát xin thầy đi tu
                   Vuốt tay lên tóc mùa thu lỡ làng
                   Lưỡi dao xuống tóc gọn gàng
                   Cành xưa nhánh cũ – rõ ràng đây chăng

                                                                           (Lên đồi)
              Nhưng không, nỗi niềm thân phận ấy đâu chỉ có sẻ chia, an bài mà luôn được người đời sau ngợi ca tiếp nối tôn vinh: “Câu thơ tự đất trời này/ Mười năm tiết hạnh lại đầy bình ca(Lên đồi). Nào ai trói buộc bước chân lãng tử khi bắt gặp “ Từ em áo tía khăn điều/ Cái tâm đã chứa ít nhiều bao dung”(Xa nhà). Ngỡ cánh én chao lượn giữa trời hồng mênh mông Nghe biển hát như nhủ lòng mình:
                  “Én thì không mắt lá răm
                   Người thì từ độ xa xăm liếc về
                   Từ ngày cha bị biển mê
                   Ngực trần thêm những bộn bề nắng mưa

                                                             (Nghe biển hát)
             Lòng khát khao hoàn lương trả lại cho em đời thường bình yên trong thơ Đông Nguyên thật sâu sắc:
                    “Rồi mai em sẽ theo chồng
                     Rồi mai trên động – tà tâm chẳng còn”
                     Bóng đời lẫn bóng lầu son
                     Mượn ai tính cuộc vuông tròn cho em

                                                                 (Cảm nhận)
            Khi Tới Huế* nghe nhịp điệu bổng trầm khúc ca trên sông Hương hay réo rắc của nhã nhạc cung đình trong hoàng cung một thuở đã lay thức miền nhớ trong anh từ tiếng đàn Kiều mà Nguyễn Du gợi tả có phải là dự đoán vận mệnh một kiếp người hay không cũng được nhà thơ tỏ bày:
                   “Phụng Hoàng xưa Phụng Hoàng nay
                     Nam Cầu Khúc lại vơi đầy ngũ cung
                     Huế ơi một tiếng tơ cùng
                     Câu thơ dài đến tận chùng bờ thương

                                                                      (Tới Huế)


            Cũng không khỏi ngạc nhiên bước chân thi sĩ chạm lên vùng Đất Võ Trời Văn Bình Định đầy khí phách nhắp một chút hương vị cay cay của rượu nồng như ấm lại tình bè bạn “… Rượu sanh tử rót cứ liều mà say”,  hạnh phúc ngày hợp hôn: “…Rượu cay đãi khách nhớ ngày vu quy”(Tới Bình Định) cho tình yêu ngự trị muôn đời trong thơ anh lúc hồ hởi chào đón, lúc khép nép rụt rè, cả dửng dưng vô tận cho trái tim anh bão bùng tan tác trong cách đối chiếu gợi hình giữa cái thực của trời đất với cái tình anh vụn vỡ: “Bão trời một loạt mưa dông/ Bão lòng sa xuống áo hồng thiên thu/ Vẫn còn đăm đắm lời ru/ Trách em thêm để rối mù trong “ta” / (Gặp lại người thương). Lỗi “ta” hay ở em, tò mò anh cũng nhận ra được bến đỗ nơi ấy lặng lẽ đơn côi “Một lần qua bến sông này/ Hỏi người mới biết ngực đầy gió trơn”(Bình yên), khi một mình “về tỉnh lẻ đành ngồi quay tơ…” rối bời vương vấn nhớ, vương vấn xe cho duyên mình kết nối mà dễ gì được!... Cái bùa yêu không hình hài biết bao phép kì lạ dễ dàng trong phút chốc biến nụ cười tươi tắn trên môi thành nỗi ám ảnh mịt mù trong ánh mắt, biến cái tỉnh táo phấn chấn trong chuyện trò hoạt bát thành ú ớ ngẩn ngơ trầm cảm. Anh trách ai đã tự đánh lừa trái tim mình, trái tim người theo năm tháng tất cả đều là tội lỗi. Bởi Thượng đế chỉ cho con người một trái tim, đó là nhịp sống trong ta. Hãy nâng niu nhịp sống như nâng niu sự thật, thơ văn cũng từ đó mà ra nhẹ nhàng lắm mà xót xa lắm:
                 “Quen mưa quen nắng chẳng lầm
                   Lẽ nào trở mặt với tầm xuân xưa
                   Chỉ từ nửa buổi nắng mưa
                   Sao em nỡ lại sớm trưa phũ phàng

                                                          (Xao động)
             Thơ văn là cái “nghiệp” đeo đuổi cả đời người. Phải chăng nó từ tâm như hạt phù sa trên tay của thi sĩ tài hoa, rắc xuống cánh đồng, cây cỏ từ cánh đồng vươn lên, tiếp sức cho hoa ngát hương quả dày cơm nặng hạt. Như lời nhắc nhở chân tình với người thơ, đánh thức miền sâu thẳm tiềm thức tâm hồn cũng như khơi gợi tính nhạy bén trong câu chữ diễn đạt cảm xúc ngợi ca trân trọng chân tình:
                  “Phượng hoàng nào đậu cành lau
                   Ngỡ em hết kiếp cạn màu tài hoa
                   Bàn tay còn hạt phong ba
                   Vẽ thành những nốt áo hoa lặng thầm
                   Chiếc đàn chín nốt vang âm
                  Đập cho tan cả trầm ngâm theo người

                                                      (Về gác phượng)
              Nhà thơ Đông Nguyên gợi ra con đường phía trước xem lỡ lầm ban đầu  như một tai nạn khách quan: “Bất cần tắt nến tai ương/ Bó chung cái khổ từng vương – đã từng/ Không phiền câu của người dưng/ Cứ nương cơn xoáy sửng sưng thượng nguồn”(Chấp nhận). Đến với thơ văn hãy biết mạnh dạn đứng lên, thành khẩn những hạn chế tồn tại, tác giả như người anh cả chỉ ra: “ Đừng quy cho những tình cờ/ Ba chìm bảy nổi dật dờ là em”/(Chấp nhận). Anh tường tận phân tích phận người mỏng manh ngắn ngủi như hài nhi không giá thú bị nạo bỏ từ trong trứng nước, tai nạn hay bệnh tật ốm đau cũng rút ngắn đời người, còn ta đang có vóc dáng ngọc ngà trời cho trụ giữa đất bao la này sao em không nâng niu gìn giữ, buông thả đời mình rơi vào khoảng vô định: “Tại em cuộn lấy tình hờ/ Cuối trăng đẫm một bến bờ thực hư… Tại em dựng cuộc tình này/ Nên môi mắt ấy phải ngày lầm than”(Thế thôi) là tất yếu. Khi ai đó đem văn chương ra cợt nhã với tình, không chóng thì chầy cũng như mây gặp gió lùa. Có như giống Tu hú đẻ nhờ vào tổ Sáo Sậu hay Ác Là kia cũng biết yêu biết nhớ cái trứng của mình huống chi là người:“Tu hú còn biết văn chương/ Đậu trên cột nhọn xem thường đại ngôn/ Chắc do cái vỏ không hồn/ Nên không thể ốc mượn trôn lên bờ”(Không chỉ mình ta trách em).
        Và nếu như cái cốt lõi kia là nhân thơm, tự biết nhận ra mình trong chừng mực nào đó, sự khiêm tốn ấy luôn được đồng cảm sẻ chia, nào cấu xé vạch lá tìm sâu  chi cho bàn tay nhiễm khuẩn. Các tiểu đề trong Phù sa trên tay như Chị thương em, Em trai, Em gái, Hàng xóm*,… hay còn chính là số đông quần chúng quan tâm bảo bọc nhắc nhở cảm thông: “Cùng là giậu cúc quê làng/  Sắm sanh cho chị rỡ ràng tìm phu”/ (Em gái). Hãy biết đón nhận: “Ngày mai sẽ đến bất ngờ/ Qua sóng gió phải vào bờ bình an”(Đồng cảm). Chính tiếng thứ hai trong câu bát phải là thanh bằng, thì ở đây “sóng”là thanh trắc dẫn đến nhịp thơ cũng thay đổi 3/3/2 mạnh hơn, tin tưởng hơn.
        Thay cho lời kết, tác giả đã mở ra những tứ thơ Hy vọng đời chờ*, mong Em quay về*, để nói lời Xin lỗi* với đứa con tinh thần của người thơ chẳng quản sớm trưa gieo trồng cày xới:
               “Đất cày nào phụ công cha
               Lặng trong hương lúa phù sa trở mình”

                                                      (Hy vọng đợi chờ)
           Cũng là cặp câu lục bát đẹp tôi tâm đắc nhất trong trường ca Phù sa trên tay của anh. Nào đâu dám so sánh với những trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh hay Những người đi tới biển của Thanh Thảo cũng có độ dài hàng trăm câu, nhưng riêng anh Đông Nguyên viết trường ca là giải bày tâm tư, không nói là giáo huấn, mà anh mượn tứ thơ cảm xúc từ cuộc đời thi hào Nguyễn Du âm thầm trăn trở viết người tài hoa bạc mệnh như Kiều bấy giờ bị đời vùi dập, như thơ văn vô tội của nàng Tiểu Thanh bị người vợ cả ghen tuông đốt thành tro bụi. Nhưng cái lo xa của Nguyễn Du với ba trăm năm sau có ai đã sống hết mình, hết lòng cho những nhân vật hư cấu trong tác phẩm, hay những người thực ngoài đời như chính Cụ đã day dứt cho Kiều và Tiểu Thanh kia. Thì trong hôm nay Đông Nguyên đồng sẻ chia với thi sĩ, anh bày tỏ quan điểm mình hãy để văn chương xuất phát từ trái tim chân tình nhất. Gạt bỏ những lệch lạc lỗi lầm, những ham muốn hão huyền mà sống thực hết mình cho văn học.
                                                       25.11. 2012/ Nguyễn Thị Phụng
___________________
* Tên các tiểu đề trong trường ca


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét