Thứ Năm, 8 tháng 7, 2021

VỀ VỚI DÒNG SÔNG của Nguyễn Thị Phụng

 

VỀ VỚI DÒNG SÔNG

(Đọc Trường ca Sông thiêng trên facebook của Nam Thi)

       Con đường đến với mảnh đất văn chương ở mỗi người có sự khác nhau. Nam Thi- Nhà báo: Sau nghỉ hưu hơn mười năm, trong ba năm lại đây đã xuất bản hai tập truyện ngắn, ba tập thơ. Văn tài của anh có được xem là số lượng tác phẩm đã in chưa. Để rồi tiếp tục Nghe lời xúi giục của mấy bạn giamahazui, hôm qua tôi cao hứng khởi sự viết bài trường ca Sông thiêng nói về dòng Côn chảy qua Tây Sơn quê tôi. Viết xong đoạn mở đầu của chương đầu “Nguồn xa”, tôi nhận ra cuộc chơi này lớn quá, đòi hỏi bỏ nhiều công sức và nhất là phải dài hơi,...”(Tản mạn 18.06.2021: Lời thưa cùng bạn bè) Và sự tiềm ẩn động cơ cho Trường ca Sông thiêng của anh ra đời trong thời gian quá ngắn kể từ lúc đăng trên facebook “Tản mạn 17-6-2021:... Nợ một dòng sông thiêng như sông Côn bao giờ mới trả hết. Tôi nay đã già, tài mọn sức yếu không dám nghĩ đến món nợ tinh thần to tác, thiêng liêng đó dù từ lâu vẫn đau đáu nghĩa tình với dòng sông quê hương...” Và Nam Thi đã vượt qua mười hai ngày (từ 17 đến 29 tháng 6 năm 2021) trả xong “món nợ tinh thần to tác” là kết thúc bốn chương cho một cuộc thử sức về dòng chảy Trường ca. Sự lựa chọn chủ đề Sông thiêng vừa gần gũi thân quen lại vừa khái quát về địa văn hóa nơi dòng Sông Côn chảy qua làng. Hẳn là cái tình đã từng “ăn con cá nhỏ, tắm con sông già”(thơ Nam Thi) đối với quê nhà Tây Sơn, hay là những ngày giãn cách xa hội vì Covid- 19.

      Trường ca là thể loại kết hợp tự sự và trữ tình. Cái đa dạng tự sự vốn có trong lịch sử, văn minh loài người thanh lọc qua thời gian còn tồn tại, ghi nhận đâu đấy trong dân gian, sách vở và chịu sự chi phối trong xã hội và tự nhiên kết thành trầm tích văn hóa. Dựa vào những điều đã có, đã trải qua, người viết trường ca thường theo mạch chảy khởi đầu đến kết thúc. Sức hấp dẫn bạn đọc về thể loại trường ca không hẳn là kết hợp tả và kể, quan niệm về nhân sinh, mà yếu tố chính vẫn là cảm hứng trữ tình của người sáng tác. Sông thiêng là đứa con tinh thần của Nam Thi bước đầu cuộc thử nghiệm vươn đến cái đẹp của thể trường ca viết về lịch sử, văn hóa trầm tích vùng đất Tây Sơn, trong mối quan hệ sông Côn hàng trăm năm trước lưu lại đến bây giờ.

       Với Trường ca Sông thiêng, khởi đầu Chương một: Nguồn xa sự hội tụ sông núi mây trời rất tự nhiên rất bền vững. Người nơi đây vươn mình lớn lên sự sống được khai sinh, duy trì tiếp nối:

“... Dòng sông chảy dài

Người đi dậy đất

Cõi hồng hoang nở hoa, kết trái địa đàng

Gà gáy đôi bờ gọi xóm làng thức giấc

Tiếng chày giã gạo vang động ánh trăng

Tiếng ru hời đong đưa nhịp võng

Trẻ em uống nước dòng sông

Lớn lên thành Biện Nhạc, Hồ Thơm, chàng Lía...

Nên sông là sông cổ tích - sông Thiêng...”

        Nguồn xa còn là điểm đến và đi theo mùa hợp và tan, dấu ấn của sum vầy và chia li. Đó là nguyên nhân từ ý thức của tộc người cho sự đấu tranh sinh tồn nảy mầm anh hùng ca sử thi: “Có ai biết sông chắt chiu mang từng hạt phù sa cao nguyên xuống núi/ Những hạt phù sa đất đỏ/ Thấm đẫm sử thi Ba na/ Của người anh hùng Đăm Noi/ Có ai uống nước còn nhớ nguồn /Có ai tắm nước sông Say để thành Đăm Noi /vụt lớn lên /cứu nhân độ thế/...”. Đất nước sản sinh nuôi dưỡng, bảo bọc con người. Con người cũng từ đó bảo vệ đất nước, cội nguồn đồng bào: người kinh và Ba Na xúm xít bên nhau bảo vệ giá trị thiêng liêng sự sống.

      
      Nếu ở chương một, Nam Thi đã dành 110 câu cho nguồn xa trong bốn tiểu đoạn nhỏ. Sang chương hai: Hợp lưu với sáu đề mục: Sông đôi, Ký ức dòng sông, Núi và sông, Hạc nội mây ngàn, Lời kết, Hoa của nắng. Tất cả có 173 câu là sự thống nhất dòng chảy, hay tên sông gắn liền với đời sống vùng miền, sông núi. Từ Sông đôi đến Ký ức dòng sông hay vẻ đẹp của người anh hùng Nguyễn Huệ đất Tây Sơn đầy tự hào, trong quan niệm về lịch sử được thể hiện bằng những câu phát vấn tâm tình như chương một, để bạn đọc tìm ra câu trả lời chính mình, còn là nhắn nhủ ngợi ca : “Ta muốn hỏi trống đồng Ngọc Lũ/ Duyên nợ nào lưu lạc đất phương Nam/.../ Ta muốn hỏi tảng đá giữa dòng/ Nơi nào Nguyễn Nhạc đã dừng chân/.../ Nơi nào Nguyễn Huệ dưới trăng múa bài quyền Ngọc trản/ "Ngọc trản ngân đài/Tả hữu tấn khai.."/ Nuôi chí lớn tung hoành ngang dọc”(Sông đôi)*. Bên những địa danh cho đôi bờ sông núi khắc ghi: “Mai Xuân Thưởng vì hiếu thà chịu bêu đầu, /không đầu hàng giặc/ Chàng Lía trúng mỹ nhân kế thất thủ ở Truông Mây/ Đều là những người con của  Phú Lạc/ Đồng hương của Quang Trung hoàng đế/ Một làng nhỏ trên bờ Bắc sông Côn”(Lời kết). Chẳng hạn Nam Thi có cách lí giải thật dễ thương cho một minh chứng khởi đầu và kết thúc:

Chỉ còn bằng lăng trâng mình dưới nắng

Hoa của mặt trời

Sinh ra từ nắng

Nắng cháy lên màu rực tím

Từ thuở dòng sông ấu thơ chập chững mở đường ra biển.

Bằng lăng theo dòng nước xa ngàn

Nên bằng lăng là nhân chứng

Của lớp lớp phù sa qua triệu năm dòng sông bồi đắp

Và kể cho ta nghe những câu chuyện đời sông

                                            (10: Hoa của nắng)

         Riêng chương ba: Lớp lớp phù sa với chín đề mục nhỏ tổng 255 câu. Có lẽ phần này chính là cốt lõi cho sự phát triển phồn thịnh và thơ mộng nhất của Sông thiêng.

       Từ mục 11: Những mảnh đá ghè đẽo- tiếp kể theo mạch cảm xúc về sự hợp lưu và phân dòng sông Ba và sông Côn,... về tình yêu và khí tiết của tộc người anh em bên nhau đều có nét tương đồng cùng người kinh. Cũng như các mục tiếp 12: Vang vọng tiếng trống đồng Vĩnh Thạnh; 13: Apsara giờ ở nơi đâu; 14: Trơ gan cùng tuế nguyệt...; 15: Chuyện vợ chồng voi đá; 16: Lời kẻ hậu bối; 17: Tuy Viễn- Đất võ Trời văn; 18: Đất lành chim đậu. Và có thể nói rằng Lớp lớp phù sa ở chương ba này chính là hồn của Sông thiêng được khai thác đến tận ngọn nguồn. Lời kẻ hậu bối đặt ra: “Ta muốn hỏi voi đá Vijaya.../ Ta muốn hỏi những mảng rêu xanh.../ Ta muốn hỏi lầu Bát giác.../” Đầy cảm xúc chứa chan ân tình, mạch thơ hào sảng mà trăn trở cho âm vọng một thời đã qua: “Trải mấy trăm năm/ Tuy Viễn là địa đầu / Nơi nghỉ chân của cuộc hành trình nam tiến/ Nơi tụ hội của giang hồ tứ chiếng/ Lúc lâm thảo khấu và hiền tài/ Nên trở thành đất võ trời văn”(Tuy Viễn- Đất võ Trời văn) của nguyên nhân và kết thúc, của kế thừa và tồn tại. Đó là sự thật không thể chối bỏ của Sông thiêng ngàn năm vang vọng đến giờ:

Sông không chỉ chở nặng phù sa

Mà còn hòa tan cả máu

Sông không chỉ hát ca

Mà âm vang tiếng khóc

Đời sông như đời người

Lớp lớp phù sa là những địa tầng ký ức

Sông không thuộc phe nào

Sông chỉ làm nhân chứng

        Trong lời khẳng định: “Sông không thuộc phe nào/Sông chỉ làm nhân chứng” để rồi còn đường thoát thai là tuôn ra biển. Sự thật đã hòa tan, chỉ còn lại dòng chảy muôn đời là từ văn hóa trầm tích tiếp nối. Đó là sự vĩnh hằng tự nhiên hội tụ hợp tan và tan hợp là tất yếu quy luật đời sông và đời người. Để rồi những con người được khắc ghi như một Đào Duy Từ, một Mai Xuân Thưởng, Trương Văn Hiến,... đã thuộc về lịch sử. Còn những tên sông, tên làng của vùng đất rộng được mở ra “chiêu hiền đãi sĩ” những vùng miền được nhắc nhớ lưu giữ đến bây giờ trong mục 18: Đất lành chim đậu là vô cùng phong phú.

        Đến Chương IV: Đời sông, đời người.  Chỉ 58 câu, với mục 19: Sông quê, giờ chỉ còn trong kí ức về “Thuở sông chưa có cầu, dọc bờ nhiều bến đợi/ Chiếc sõng nan nối đôi bờ / Người yêu nhau ra bến sông ngồi chờ/ Con tíu tít đón mẹ về sau buổi chợ phiên/.../ Dọc dài bờ tre mùa gió nồm mát rợi/ Ghe mắm Gò Bồi ngược dòng lên Tây Sơn.../ Người đầu sông hẹn người dưới giã/ Gắng chờ buồm mùa gió thuận năm sau”. Dập dìu và nhớ thương.

       Và cuối cùng mục 20: Tắm mát sông thiêng(thay lời kết): cứ tha thiết khẩn cầu trong sự lặp lại: “Về đi người ơi...về đi/ Sông quê luôn đợi người về tắm mát/.../ Về đi người ơi/ Nước sông thiêng không cải lão hoàn đồng/...”. Có thể hãy đồng hành cùng anh bằng đôi chân, hay miên man kí ức trên những nẻo đường quê tìm chút bóng tre dọc bờ sông Côn, nơi chiều về cánh cò còn chao nghiêng tìm tổ. Hay cũng có thể đồng hành cùng anh sẻ chia chút vui buồn thoáng qua như giấc mộng một đời người, mà đời sông là chứng nhân vĩnh cửu:

             “Đời đổi thay bãi bể nương dâu

             Nhưng sông thiêng vẫn chảy

             Đời sông dài

             Đời người ngắn lắm người ơi

             Sông theo ta góc biển chân trời

             Ta gửi hồn ta cho sông đời đời lưu giữ”.

         Trường ca Sông thiêng có 596 câu là điều bất ngờ ngoài dự định đặt ra của tác giả khi chốt lại phần kết trong ngày thứ 12. Bởi lẽ không nhẫn nha hay tham vọng, khi định hướng chủ đề, theo phạm vi giới hạn các chương đã vạch ra, chỉn chu cho mỗi tứ trong phần đề mục trường ca. Trở lại ban đầu cuộc chơi “giamahazui” đã về đích ngoài thời gian dự định cho sáu tháng. Nguyên nhân không là tuổi tác, cái chính là tích lũy kiến văn, của thực tế đời sống đã làm nên một Nam Thi với trường ca Sông thiêng ra đời. Những yếu tố lịch sử, văn hóa và con người trong trường ca là cái nền cho Sông thiêng của anh thăng hoa trong sáng tạo. Không kì vọng, có thể Sông thiêng của Nam Thi góp thêm vào vườn văn Bình Định về thể loại trường ca sau tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác viết về dòng sông quê hương./.

08.07.2021 / Nguyễn Thị Phụng

 

2 nhận xét:

  1. Bờ Nam là Nguyễn Mộng Giác với tiểu thuyết trường thiên SÔNG CÔN MÙA LŨ.
    Bờ Bắc có NAM THI (TRẦN THIẾU BẢO) vừa viết xong trường ca SÔNG THIÊNG.
    Cả hai ông đều viết về dòng sông quê mộc mạc chảy dọc theo làng không ghềnh thác. Cả hai tác phảm đều rất đáng để đọc.

    Trả lờiXóa