Chủ Nhật, 21 tháng 1, 2018

RIÊNG TÔI TÌM MÓT RUỘNG ĐỒNG- Nguyễn Thị Phụng

                                 RIÊNG TÔI TÌM MÓT RUỘNG ĐỒNG
                (Đọc Chiếc lá hồi hương, tập thơ Viễn Trình, NXB. HNV. 2015)

        Ở tuổi hai lăm cho ra đời tập thơ Cánh chim bay về (NXB Đà Nẵng- 2007) và tám năm sau là Chiếc lá hồi hương (NXB Hội Nhà văn- 2015). Ngay từ việc chọn hai tựa đề đã có sự thâm thúy của Viễn Trình, một tín hiệu vui cũng không lạ gì ở cây bút trẻ Bình Định. Đã vậy còn mượt mà hơn bằng những dòng lục bát chân quê, thấm vào lòng người đọc dẫu khó tính nhất luôn là sự đồng thuận. Lung linh tỏa sáng bên cạnh nhiều thể loại tự do, phải chăng Chiếc lá hồi hương mở ra những tứ thơ có “Tiếng vằng vặc rọi quê nhà thần tiên”(Tiếng trăng) đầy yêu thương quá!

       Có thể nói trước đây và bây giờ cũng vậy, thơ và đời luôn đồng hành nhau. Bởi đời đi vào trang thơ bằng cảm xúc thẩm mĩ nuôi dưỡng tâm hồn người. Vì lẽ đó thơ sinh ra sự sống dẫu là thường nhật không văn hoa của một chàng Viễn Trình rụt rè yêu: “Dòng em ý tứ thêu thùa/ Dòng tôi hình vị gió lùa riêng tư/ Bao năm lồng ghép sặc sừ/ Một câu nói chỉ ba từ… không xong”(Ngôn ngữ hai dòng sông) và dỗi hờn cũng rất Bình Định: “Buồn lên nửa cánh bằng rồi/ Sao em chưa chịu nhìn đời hư hao/ Bỏ anh ra, cộng nẫu vào/ Bổ sung lại giấc chiêm bao lạ lùng”(Bổ sung lại giấc chiêm bao). Để rồi cho ta tận hưởng cảm xúc thăng hoa “Những đêm ngồi khóc nai vàng/ Suối ngơ ngác cạn không tàn trăng rơi”(Người từ sơn cước). Mở ra không gian thơ mộng liên kết  thực tại đến ý tưởng đã sẻ chia gần đây: “Gọi sen, sen đã biệt hồ/ Gọi nai, nai bỏ suối bơ vơ rồi”(Gậy xuân, Nguyễn Thanh Mừng), Nhà thơ cũng rất thành công ở tuổi ngoài ba mươi với tập “Ngàn xưa” tích cổ từ những năm 90 thế kỉ trước. Còn ở Viễn Trình hôm nay, đã kế thừa sự sáng tác tiếp nối không đứt quãng với truyền thống cũ, mà gần hơn hết là cuộc “Du hành lục bát”(Tập thơ Khổng Vĩnh Nguyên) sinh ra anh, người con Cát Hải, Phù Cát- miền nắng gió tự nhiên thử thách lâu đời. Thể như con sóng cứ mãi xô bờ, gặp lớp cát mịn lặng im trong cát mịn thanh lọc đời mình, gặp ghềnh đá góc cạnh lại tung bọt trắng xóa miệt mài bào nhẵn cho tròn trịa mới thôi. Biển ngàn năm cũ đấy. Nhưng chưa bao giờ già nua. Lại bền vững trẻ trung theo mùa. Vị mặn nồng hương biển bẩm sinh từ trong máu thịt Viễn Trình đã trở thành năng khiếu một nhà thơ trẻ quê hương của hơn mười thập niên đầu thế kỉ XXI này. Không ngoa.

       Chiếc lá hồi hương cứ lặng lẽ thời gian mở ra thi vị cuộc đời cho một tình yêu chân chính. Nhân vật trữ tình trong thơ Viễn Trình được gọi “em” thể như đại từ xưng hô cùng với “anh/ tôi/ ta” cho thuận lời bộc bạch:
      Lúc thì ngọt ngào chan chứa em- anh: “Bốn mùa chụm lại thành non nước/     Anh hớp thật nhiều chẳng thấy vơi/ Xin em một ngụm tình ao ước/ Đỡ lòng anh khát lúc đơn côi!”(Bốn mùa chụm lại). Còn có sự bền bĩ nào hơn nữa (Gọi tình, Tưởng tượng,…) mãi duy trì:
                  “ Một mình ngọt nắng đắng mưa
                    Buồn như bong bóng em vừa thổi bay
                    Anh chùi chưa hết dấu tay
                    Mười năm gõ cửa xin vay ái tình

                                            (Mười năm gõ cửa).
      Lúc thì “em- tôi” thận trọng nhắn nhủ (Quê nhà sẽ thưa, Mùa xuân nghĩ cạnh dòng thơ, Nỗi buồn bỏ quên, Hỏi thăm, Mặc khải, Giữ gìn, Lá đầu sông,…), đã không tự trách mình mà độ lượng: “Ơn em từ đấy vội vàng/ Tôi như mây lạc về ngang lưng trời/ Ơn em từ đấy xa vời/ Nhớ mong sà xuống, tơi bời vụt lên/ Rừng thông thay lá gọi tên/ Người đi một thuở đừng quên quê nghèo!”(Ơn em lá gọi).
       Lúc thì sức chịu đựng bấy lâu nhưng vẫn một mực là “em”, dẫu chút hằn học cố nén phải bật ra: “Em xẻ đời cổ thụ/ Ta nằm chết phôi thai/ Mưa xuân dầm nắng hạ/ Ta đứng không hình hài”(Khổ đau không hình hài). Quả “em” có hạnh phúc không khi được thi sĩ chết cho tình yêu ấy: “ta” dành cho em là thế. Mặc cho ta nằm chết từ trong phôi thai mầm nhú, ta điên khùng tan vỡ, đến nỗi: “Vầng trăng cất bóng tạ từ/ Phong ba khiếp sợ tôi nhừ tử yêu/ Hạ rồi, thu nữa… bao nhiêu?/ Biết ai khổ hạnh sớm chiều đó không!”(Biết ai khổ hạnh). Hạ rồi, thu nữa… bao nhiêu đâu chỉ là vòng thời gian đong đếm, thấp thoáng sự mãnh liệt “Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu” của một Xuân Diệu thời Thơ Thơ(1938), thấp thoáng một Vũ Quần Phương cuối thế kỉ trước “… Em đi lửa cháy trong bao mắt/ Anh đứng thành tro em biết không”. Thi sĩ có si tình đến mấy rồi ngộ ra “Đã qua thời niên thiếu/ Đã lại tháng năm mòn/ Tóc trên đầu chợt hiểu/ Đã quen rồi cô đơn”(Tự mài mình phong ba).
       Viễn Trình biến cô đơn nhập hồn tĩnh lặng, đằm thắm, tung tẩy với một chút ngông nghênh:
         “Ai giúp tôi rơi ra ngoài quả đất
           Buồn tàn theo tầm vút nắng an nhiên
           Nhổ phận mình neo trong tĩnh lặng
           Bất tận mùa xanh trái vô biên

                          (Bất tận mùa xanh trái vô biên).
        Chiếc lá hồi hương trở về quê nhà khó neo trong tĩnh lặng, một khi nắng gió dãi dầu cuộc mưu sinh, tâm hồn “thi sĩ” trở về thực tại cho mùa bất tận lên xanh, là cầu nối nhịp đập trái tim chở che tháng ngày lận đận nhớ  nhung: “Giếng quê mạch sạch gạo làng/ Em ngồi vo những vô vàn tình anh/ Dựng lều hai đứa ngồi canh/ Cơm trào sóng bể rát gành mây bay”(Gạo vo thành tiếng cơ cầu), nhọc nhằn thân phận, sẻ chia (Nhắn về, Hương cốm mùa thu, Bát cơm ấm giữ tình người,…). Chờ mong mùa kết trái, nên càng ý tứ phải nhẹ tay, lỡ “Bẻ một nhành mai sặc sỡ/ Anh cắm vào nỗi nhớ/ Cuốn lá thì thầm… xuân rỉ nhựa mênh mông”(Về Tân Thanh):    
        “Về Tân Thanh đi em
          Nghe mẹ hát bài ru em thân thuộc
         ….
          Về Tân Thanh như lúc mẹ từng trông
          Ba tỏ tình bằng khúc ca trên vồng đất ải
          Nụ cười tươi hương hoa cải
          Về Tân Thanh đi em!...

                       (Về Tân Thanh)
        Thể như điệp khúc mong kết nối cuộc vuông tròn bằng đôi tay chính mình. Hạnh phúc sẽ chẳng dựa dẫm vào ai, chỉ là anh, chỉ là em trở về với luống cày quê hương sau ngày lũ rút. Nơi ấy quen thuộc với rạ rơm bao mùa gặt hái, nuôi dưỡng chăm chút đời ta bằng hương lúa, ngô, khoai,... Hay Viễn Trình đã nằm lòng Chân quê (Nguyễn Bính) khẩn cầu rời xa bến mê, cái bến nặng nợ vật chất lại đầy sức hấp dẫn thu hút “phận” em thế kia!...  Nhà thơ đã kịp đánh thức, đưa em sớm trở về bằng những dòng lục bát ngọt ngào lay động:
        “Ngày lũ rút ta sẽ về gieo sạ
          Cầm tay anh, em đợi lúa xanh đồng
          Cầm tay mẹ quên nỗi buồn xứ lạ
          Nắng thu vàng tỏa giữa mùa đông

                       (Ngày lũ rút ta sẽ về gieo sạ)
        Những thiên tai lũ lụt dẫu cướp đi biết bao thiệt hại con người và tài sản, bù lại ruộng vườn màu mỡ phù sa. Vậy thì “Rễ siêng đâu ngại đất nghèo”(Nguyễn Duy). Phải chăng đây là lúc em về thăm lại quê nhà hợp lí nhất “Em gạt nỗi buồn, anh bừa cạn trôi qua”, nâng niu nơi tuổi thơ em lớn lên đầy kỉ niệm. Viễn Trình đã chọn đúng “thời vụ” xây dựng tứ thơ cho mình. Bởi “Làm thơ, khó nhất là tìm tứ. Tứ thơ bắt đầu đẻ ra sự sống để tác động vào sự sống tinh vi hơn, mà trong nghệ thuật, đẻ ra sự sống là đỉnh cao nhất”(Xuân Diệu). Đâu riêng Ngày lũ rút ta sẽ về gieo sạ, kể cả các bài còn lại trong tập cùng đẻ ra sự sống xúm xít bên nhau.
            Không chút triết lí cao siêu, mà bằng những vần thơ chân chính rất dân tộc, ý tưởng sâu sắc nhẹ nhàng gieo vào lòng người gặt hái cái tình cái nghĩa sống ở đời, là biết xuôi dòng tìm về chiếc nôi văn học thuần túy. Lại tự nguyện lựa chọn phong cách “riêng tôi tìm mót ruộng đồng” khiêm tốn xới cày cho thỏa khát khao, đầy trách nhiệm của người sáng tác. Có một Viễn Trình thêm Chiếc lá hồi hương là sự nhập cuộc tiên phong vào làng thơ trẻ quê mình./.
28.04.2017/  Nguyễn Thị Phụng



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét